Bạn đang xem bài viết Văn Mẫu Lớp 9: Cảm Nhận Về Nhân Vật Vũ Nương Trong Chuyện Người Con Gái Nam Xương Dàn Ý &Amp; 20 Bài Văn Mẫu Lớp 9 Hay Nhất được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Jhab.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
TOP 20 bài Cảm nhận nhân vật Vũ Nương SIÊU HAY, kèm theo dàn ý chi tiết, sẽ giúp các em học sinh lớp 9 hiểu sâu sắc hơn về số phận bi thảm của nhân vật chính trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ.
I. Mở bài
Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Dữ và truyện “Chuyện người con gái Nam Xương”.
Giới thiệu về nhân vật Vũ Nương.
II. Thân bài
1. Tóm tắt lại diễn biến câu chuyện
Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, không chỉ xinh đẹp mà còn có tư dung tốt đẹp.
Điều ấy khiến cho Trương Sinh – một chàng trai trong làng yêu mến, xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Biết chồng là một người hay ghen, nàng luôn giữ gìn khuôn phép nên gia đình luôn hòa thuận.
Vậy mà chồng nàng, sau khi đi lính chỉ vì một lời ngây thơ của con trẻ, chưa làm rõ đầu đuôi câu chuyện đã giở thói ghen tuông. Dù Vũ Nương hết lòng giải thích nhưng vẫn vô dụng.
Nàng quyết định tìm đến cái chết để chứng minh sự trong sạch của mình.
Sau này, khi đã hiểu rõ mọi chuyện, Trương Sinh cảm thấy hối hận thì cũng đã muộn. Chàng cho người lập đàn giải oan thì thấy Vũ Nương hiện về lúc ẩn lúc hiện.
2. Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương
– Vũ Nương là người phụ nữ truyền thống với những phẩm chất tốt đẹp:
Nàng không chỉ xinh đẹp dịu dàng mà tư dung tốt đẹp.
Khi lấy chồng, luôn giữ gìn mực thước nên gia đình luôn giữ được hòa khí.
– Khi chồng đi lính:
Trước lúc chồng lên đường: Rót chén rượu đầy, dặn dò chống bằng lời lẽ ân cần, dịu dàng “Chàng đi chuyến này …đủ rồi”
Trong lúc chồng đi lính: Lo toan việc nhà, chăm sóc mẹ già, dạy dỗ con thơ đều chu đáo.
– Khi bị chồng ngờ vực:
Hết mực giải thích bằng những lời nói nhẹ nhàng: “Thiếp vốn con kẻ khó … nghi oan cho thiếp”.
Biết không thể giải thích được nữa, nàng chọn cái chết để chứng minh tấm lòng của mình.
3. Đánh giá về cuộc đời của Vũ Nương
Không được quyền lựa chọn tình yêu, hôn nhân. Sự bất công đối với người phụ nữ xưa khi họ phải chịu cảnh “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”.
Không được hưởng hạnh phúc trọn vẹn vì chiến tranh. Cuộc sống gia đình chưa được bao lâu thì phải vì chiến tranh mà chia cắt.
III. Kết bài
Khái quát lại về nhân vật Vũ Nương.
Cảm nhận của người viết về nhân vật Vũ Nương: xót xa cho thân phận.
Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” là một người phụ nữ hội tụ tất cả phẩm chất quý báu của phụ nữ truyền thống Việt Nam. Trước hết, Vũ Nương là một người vợ yêu thương chồng hết mực. Khi Trương Sinh đi lính, nàng chỉ mong chồng trở về bình an lành lặn chứ không hè mong tước phong hầu trở về. Khi chồng đi lính, mẹ chồng ở nhà ốm nặng, nàng cũng chăm sóc vô cùng chu đáo. Đến khi mẹ chồng mất nàng lo ma chay tế lễ cẩn thận như đối với chính cha mẹ đẻ mình. Không chỉ là một người vợ yêu chồng, một người con dâu hiếu thảo mà Vũ Nương còn là một người mẹ yêu thương con hết mực. Vì sợ bé Đản không cảm nhận được tình thương của cha mà Vũ Nương đã trỏ bóng mình trên vách và nói đó là cha Đản. Đồng thời, Vũ Nương còn là một người phụ nữ có lòng tự trọng. Khi bị Trương Sinh nghi oan, nàng giải thích hết lời mà chàng không tin, Vũ Nương đã nhảy xuống sông tự vẫn để chúng minh sự trong sạch của mình. Nàng thà chết để được chứng minh trong sạch còn hơn là sống một cuộc đời bị mọi người sỉ vả. Không những thế, Vũ Nương còn là một người phụ nữ giàu lòng vị tha. Khi ở dưới thủy cung nàng vẫn một lòng nhớ về chồng và con mặc dù chính chồng nàng là nguyên nhân gây ra cái chết cho nàng. Khi được Trương Sinh lập đàn giải oan, nàng còn cảm ơn chồng vì đã nghĩ đến nghĩa vợ chồng mà giải oan cho nàng. Qua đây ta thấy được Vũ Nương là một người phụ nữ đẹp người đẹp nết nhưng lại chịu số phận đầy bất hạnh.
Nguyễn Dữ sống ở thế kỷ XVI quê ở huyện Trường Tân nay là Thanh Miện – Hải Dương. Ông là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Các tác phẩm của ông đã đóng góp rất lớn cho nền văn học trung đại Việt Nam. Điển hình là “Truyền kỳ Mạn Lục” gồm có hai mươi câu chuyện nhỏ. Trong đó tiêu biểu là chuyện người con gái Nam Xương là câu chuyện thứ 16 của Truyền Kỳ Mạn Lục, được bắt đầu từ truyện “vợ chàng Trương”. Qua việc xây dựng hình tượng Vũ Nương với đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp nhưng lại chịu nhiều oan khuất, Nguyễn Dữ đã bày tỏ lòng thương cảm với Vũ Nương, với những người có số phận hẩm hiu giống nàng.
Vũ Nương tên thật là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương thuộc phủ Lý Nhân, xuất thân trong một gia đình nghèo khó, vừa có nhan sắc lại có đầy đủ đức hạnh. Vì thế Trương Sinh con nhà hào phú đã xin mẹ trăm lạng vàng để cưới về.
Phẩm hạnh tốt đẹp của Vũ Nương được thể hiện rất rõ trong các mối quan hệ với gia đình. Trong cuộc sống vợ chồng, nàng cư xử rất đúng mực, nhường nhịn, luôn biết giữ gìn khuôn phép cho nên dù chồng đa nghi, đối với vợ phải phòng ngừa quá mức nhưng vợ chồng không bao giờ thất hoà. Như vậy dù cuộc hôn nhân không xuất phát từ tình yêu và có dấu hiệu mua bán nhưng gia đình luôn êm ấm bởi đức hạnh của Vũ Nương. Khi tiễn Trương Sinh đi lính, nàng rót chén rượu đầy dặn dò những lời tình nghĩa đằm thắm thiết tha: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm hoa trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Lời tiễn biệt đó cho thấy nàng không trông mong vinh hiển mà chỉ cầu mong chàng bình yên trở về. Đó là mong ước giản dị, bình thường của người vợ, người phụ nữ luôn mong cuộc sống gia đình sum vầy, hạnh phúc. Không chỉ vậy, nàng còn biết cảm thông trước nỗi vất vả, gian lao mà người chồng phải chịu đựng khi ra chiến trường: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ hiền lo lắng”. Rồi nàng còn nói lên nỗi khắc khoải, nhớ nhung của mình trong những ngày chồng đi xa: “Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú. Dù có thư tín nghìn hàng, cũng không sợ có cánh hồng bay bổng”. Những câu văn biền ngẫu sóng đôi, cân xứng nhịp nhàng như nhịp đập thổn thức của trái tim người vợ trẻ, lời tiễn biệt ân tình thể hiện tình yêu thương chồng và niềm khát khao một mái ấm hạnh phúc. Xa chồng, Vũ Nương không lúc nào không nghĩ đến, không nhớ thương: “Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn nơi góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Tác giả đã dùng những hình ảnh ước lệ, mượn cảnh vật thiên nhiên để diễn tả sự trôi chảy của thời gian. Thời gian trôi qua, không gian cảnh vật thay đổi, mùa xuân tươi vui đi qua, mùa đông ảm đạm lại đến còn lòng người thì dằng dặc một nỗi nhớ mong. Chi tiết nàng chỉ bóng mình trên tường và nói với con rằng “cha Đản lại đến” không chỉ muốn con ghi nhớ bóng hình người cha trong trái tim non nớt của nó, mà còn thể hiện tình cảm của nàng trước sau như một, gắn bó như hình với bóng. Nói với con như vậy để làm vơi đi nỗi nhớ thương chồng. Tâm trạng đó của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người vợ có chồng đi lính trong thời loạn lạc:
Không chỉ là một người vợ thủy chung mà Vũ Nương còn là người con dâu hiếu thảo. Khi chồng đi lính, nàng vẫn còn trẻ nhưng đã phải gánh vác mọi việc trong gia đình chồng. Trong xã hội, mối quan hệ mẹ chồng – nàng dâu rất khó dung hoà vậy mà Vũ Nương vẫn rất yêu quý, chăm sóc mẹ chồng như đối với cha mẹ đẻ của mình. Khi mẹ chồng ốm, nàng “hết sức thuốc thang và lễ bái thần phật, lấy lời ngọt ngào, khôn khéo, khuyên lơn”. Những lời nói dịu dàng, những cử chỉ ân cần của nàng thật đáng trân trọng. Đặc biệt lời trăn trối của bà mẹ chồng trước khi mất: “Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về, mà gượng cơm cháo. Song tuổi thọ có chừng, số trời khó tránh. Đêm tàn chuông đổ, số tận mệnh cùng; một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, không khỏi phải phiền đến con. Chồng con xa xôi, mẹ chết lúc nào, không thể kịp về đền báo được. Sau này trời giúp người lành, ban cho phúc trạch, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, mong sông xanh kia chẳng phụ con cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ” là sự ghi nhận, đánh giá rất cao công lao của Vũ Nương đối với gia đình. Đặt trong xã hội lúc bấy giờ thì đây là lời đánh giá thật xác đáng và khách quan khiến ta cảm nhận được nét đẹp trong phẩm chất của Vũ Nương. Rồi đến khi mẹ chồng mất, nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như cha mẹ ruột. Nàng làm những việc đó không chỉ vì bổn phận và trách nhiệm của người con dâu mà còn xuất phát từ lòng yêu thương, sự hiếu thảo mà nàng đã dành cho mẹ. Rõ ràng Vũ Nương là một người phụ nữ đảm đang, tháo vát. Trong cả ba tư cách: người vợ, người con, người mẹ, tư cách nào cũng nêu cao được đức hạnh của nàng: chung thủy, yêu thương chồng tha thiết, rất mực yêu thương con, hiếu thảo với mẹ chồng. Nàng là mẫu người phụ nữ lí tưởng trong xã hội phong kiến xưa, nàng xứng đáng được hưởng hạnh phúc bà được mọi người trân trọng.
Cứ ngỡ người phụ nữ như Vũ Nương sẽ có một cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn, nhưng nàng lại vướng vào oan khuất đắng cay. Đó là khi Trương Sinh trở về, nghe lời con trẻ mà nghi nàng thất tiết và đã cư xử phũ phàng. Trước khi tự vẫn, nàng cố phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình. Nàng nói đến thân phận, tình nghĩa vợ chồng và khẳng định tấm lòng thủy chung của mình: “Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Những lời nói của nàng đều vì muốn hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có ngu cơ tan vỡ. Vũ Nương đã hết lời phân trần nhưng Trương Sinh không tin, vẫn mắng mỏ nàng thậm tệ và đánh đuổi nàng đi. Hạnh phúc gia đình – nỗi khao khát cả đời nàng đã tan vỡ, tình yêu không còn: “Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió, khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi vọng phu kia nữa”. Cuộc hôn nhân đã không thể nào hàn gắn nổi. Bao công sức xây đắp tổ ấm đã trở nên vô nghĩa. Không thể nào giải được nỗi oan khuất, nàng tìm đến cái chết để bày tỏ tấm lòng mình: “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”. Lời than như một lời nguyền xin thần sông chứng giám cho nỗi oan khuất của nàng. Hành động trẫm mình xuống dưới sông Hoàng Giang là hành động cuối cùng để bảo toàn danh dự. Nàng tìm đến cái chết trong nỗi tuyệt vọng nhưng cũng có sự chỉ đạo của lí trí: nàng tắm gội chay sạch trước khi chết và cầu nguyện một cách thanh thoát.
Tuy nhiên Vũ Nương vì trong sáng, vô tội nên được Linh Phi cứu giúp đưa về động rùa. Ở dưới thủy cung, nàng có được một cuộc sống sung túc cùng các tiên nữ nhưng nàng vẫn không nguôi nỗi đau trần thế, nỗi nhớ gia đình, quê hương và đặc biệt luôn khao khát được phục hồi danh dự. Hình ảnh Vũ Nương trở về trong đàn tràng giải oan của Trương Sinh và lời nói vọng vào của nàng thể hiện nàng là người ân nghĩa thủy chung. Đàn tràng giải oan, sự ân hận muộn màng của Trương Sinh thể hiện tấm lòng vị tha cao thượng. Điều đó còn thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân ta về lẽ công bằng, người tốt dù trải qua bao nhiêu oan khuất cuối cùng cũng được minh oan.
Truyện thành công nhờ việc sắp xếp các tình tiết hợp lí, cách tạo tình huống thắt nút, mở nút. Trên cơ sở cốt truyện có sẵn, tác giả sắp xếp thêm một số tình tiết, thêm bớt, tô đậm những tình tiết có ý nghĩa làm cho diễn biến hợp lí, tăng tính bi kịch làm câu chuyện trên hấp dẫn. Nguyễn Dữ đã khéo léo sử dụng các yếu tố kì ảo tạo kết thúc có hậu làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật chính.
Qua vẻ đẹp và bi kịch của Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã lên án, tố cáo xã hội phong kiến xem trọng quyền uy của người giàu, người đàn ông, đồng thời thể hiện tấm lòng trân trọng của mình đối với người phụ nữ phải chịu nhiều bất hạnh thiệt thòi trong xã hội.
Vũ Nương quê ở Nam Xương, thùy mị nết na, xinh đẹp. Cuộc đời của Vũ Nương thật là ngắn ngủi, nhưng nàng đã làm tròn bổn phận của người phụ nữ. Biết giữ gìn khuôn phép, vì vậy cuộc sống gia đình trong ấm ngoài êm. Trương Sinh đi lính, nàng phải gánh bao vất vả phải sinh nở và nuôi con một mình chăm sóc mẹ già khi ốm đau, khi mẹ mất lo toan như cho mẹ mình. Nàng đã làm tròn bổn phận làm dâu. làm vợ, làm mẹ.
Vũ Nương cũng giống như bao nhiêu người chinh phụ khác, lúc nào nàng cũng ước mong người chồng trở về đoàn tụ. Khát vọng hạnh phúc ấy thật là bình thường giản dị. Người chinh phụ trong tác phẩm Chinh phụ ngâm luôn khao khát chồng đi lính sẽ được phong tước, phong hầu, để rồi một ngày kia “võng anh đi trước, võng nàng theo sau”. Còn Vũ Nương chẳng ham công danh, võng lọng chỉ xin ngày về mang theo hai chữ “bình yên”. Vũ Nương xem trọng hạnh phúc gia đình, xem đó là tất cả của cuộc đời mình.
Trương Sinh trở về, ước mong của Vũ Nương sắp trở thành hiện thực nhưng không ngờ lại có một cuộc chia li vĩnh viễn.
Trương Sinh bế con, nó không theo, chàng dỗ con. Không ngờ thằng bé ngây thơ lại nói: Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Cha tôi chỉ nín thin thít… Trương Sinh gặng hỏi con, thì đã được bé Đản nói rõ ràng: Cha nó ngày nào cũng đến, mẹ nó đi cha nó cũng đi theo, vốn tính cả ghen, Trương Sinh cho rằng có người đàn ông thứ hai xen vào gia đình mình.
Nghi ngờ này sẽ được giải tỏa nếu Trương Sinh cho biết câu nói của con. Trương Sinh không làm như vậy. Cái thói ghen tuông thô lỗ ăn sâu vào tâm trí, khiến cho Trương Sinh mất lí trí, thiếu tỉnh táo đã mắng nhiếc Vũ Nương thậm tệ rồi đánh đuổi nàng đi. Trương Sinh bất chấp những lời thanh minh, van xin tha của Vũ Nương, khiến nàng chỉ còn một con đường lấy cái chết để giãi bày lòng mình.
Từ đây ta nhận thấy nguyên nhân cái chết của Vũ Nương còn do: Chiến tranh li tán, vợ phải xa chồng tạo nên mối ngờ vực, xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ.
Cái chết của Vũ Nương đã chứng minh rằng: Hạnh phúc lứa đôi chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở của tình yêu thương chân chính, có sự cảm thông và sẻ chia.
Tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương đã để lại trong lòng người đọc những cảm xúc khó phai về số phận của người phụ nữ Việt Nam trong chế độ cũ. Hình ảnh người con gái Vũ Nương phải gieo mình xuống dòng sông Nhị Hà để chứng minh sự trong trắng trinh bạch của mình, khi bị chồng nghi oan, khiến cho người đọc vô cùng cảm động, rơi nước mắt xót xa.
Vũ Nương vốn là người con gái thùy mị, đoan trang nhưng do tính đa nghi của người chồng. Do xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, coi trọng tiếng nói, uy quyền của người đàn ông hơn phụ nữ đã khiến cho nàng phải chết oan khuất như vậy. Thông qua tác phẩm của mình tác giả Nguyễn Dữ muốn bày tỏ niềm xót xa với những người phụ nữ thời xưa, thể hiện tinh thần nhân văn nhân đạo của tác giả.
Vũ Nương tên cha mẹ đặt cho nàng là Vũ Thị Thiết, vốn là người con gái nết na, xinh đẹp, khéo tay được nhiều chàng trai để ý thầm thương trộm nhớ. Nhưng năm nàng tròn đôi chín, có chàng trai tên Trương Sinh, gia cảnh neo đơn, nhà chỉ có một mẹ một con đến xin hỏi cưới làm vợ với giá một trăm lạng vàng.
Chính trong phong tục cưới vợ ngày xưa đã cho thấy người phụ nữ không hề có quyền quyết định vận mệnh tương lai, hạnh phúc của mình. Nàng tuy là một con người có suy nghĩ, tính cách của riêng mình nhưng chuyện cưới hỏi, chuyện hạnh phúc trăm năm nàng lại phải nghe lời cha mẹ hai bên. Nàng được hỏi cưới với giá một trăm lạng vàng chẳng khác nào được bán với một trăm lạng vàng.
Từ ngày về làm dâu, làm vợ Trương Sinh, Vũ Nương luôn hiếu thuận với mẹ chồng, là người vợ hiền dâu thảo, không để gia đình chồng chê trách điều gì. Nàng luôn chu đáo lo toan trong ngoài. Từ xưa tới nay những người con dâu như nàng thật hiếm thấy. Nàng và Trương Sinh cũng tâm đầu ý hợp không bao giờ xảy ra to tiếng, cãi vã bất hòa bởi Vũ Nương luôn coi lời chồng và mẹ chồng là quan trọng nhất. Với đức tính ngoan hiền, dịu dàng, thùy mị nết na của mình Vũ Nương luôn giữ gìn gia đình của mình hạnh phúc ấm êm.
Những hạnh phúc ngắn ngủi, Trương Sinh phải gia nhập quân ngũ đi đánh giặc ngoài chiến trường, khi mà Vũ Nương vừa luôn giữ trọn đạo vợ hiền, dâu thảo, nàng chăm sóc mẹ chồng, giữ gìn đức hạnh mới mang thai. Dù xa chồng nhưng Vũ Nương chờ chồng, thủy chung trước sau như một. Không một chút tà tâm, hay có lòng dạ không chung thủy, yếu lòng với ai đó. Nhưng chẳng bao lâu khi Trương Sinh đi xa, mẹ chồng của nàng ốm bệnh, dù đã cố gắng chạy chữa thuốc thang nhưng bà không qua khỏi mà mất đi, bỏ lại Vũ Nương một mình với đứa con nhỏ.
Hai mẹ con nuôi nhau sống qua ngày, chờ ngày Trương Sinh trở về. Nhiều đêm buồn nhớ chồng Vũ Nương thường chỉ bóng mình trên tường nói với con trai đó chính là ba con đó. Thằng bé ngây thơ tưởng thật. Nó đâu biết rằng đó chỉ là cái bóng của mẹ nó mà thôi.
Chiến tranh kết thúc ngày Trương Sinh trở về nhà, Vũ Nương vui mừng khôn xiết, những tưởng năm tháng chờ chồng nuôi con một mình đã được báo đáp. Nhưng sóng gió đã ập đến với nàng một cách không ngờ. Khi về tới nhà nghe tin mẹ mất Trương Sinh đau xót vô cùng, anh chàng liền bế con trai của mình đi ra mộ mẹ thắp hương cho mẹ yên lòng. Nhưng thằng bé cứ khóc mãi không chịu nín nó nhất định không chịu nhận Trương Sinh là cha. Nó bảo cha nó tối nào cũng tới.
Trương Sinh nóng tính, hay ghen, lại quá đa nghi nên vội vã tin lời con trẻ, không cho vợ được giải thích mà đùng đùng nổi giận đuổi vợ ra khỏi nhà. Quá đau đớn vì không thể thanh minh sự trong sạch của mình nên Vũ Nương đã nhảy xuống sông Nhị Hà tự vẫn. Trước nỗi oan khuất quá lớn Vũ Nương không thể nào sống tiếp trên cõi đời này được nữa.
Người con gái tên Vũ Nương đó đã phải chết trong oan khuất, tủi hờn như vậy. Nhưng do phẩm giá cao quý và đức hạnh của nàng đã làm trời đất cảm động. Cuối cùng thì nàng cũng được giải oan, khi mà Trương Sinh trong một đêm không ngủ ngồi soi bóng mình trên tường thì con trai anh nhìn thấy nó vui mừng nói lớn “Cha con đó”. Trương Sinh biết mình đã nghi oan cho vợ nhưng hối hận thì đã muộn màng. Còn Vũ Nương sau khi chết được cứu giúp rồi được lập đàn siêu thoát bay về trời làm tiên nữa, thoát kiếp con người khổ đau bất hạnh.
Chuyện người con gái Nam Xương nhằm tố cáo tội ác của chế độ phong kiến, người đàn ông luôn cậy quyền lực mà đàn áp người phụ nữ khiến cho nhiều người phụ nữ phải chịu thiệt thòi, oan khuất. Nhân vật Vũ Nương là người con gái hiền dịu nết na, là tấm gương cho nhiều nhiều phụ nữ noi theo. Cô là người đức hạnh, hiền thục rất tiếc rằng cuộc đời lại không cho cô gặp được một người chồng tốt, không cho cô được quyết định hạnh phúc của đời mình.
Nguyễn Dữ sống ở thế kỷ XVI quê ở huyện Trường Tân nay là Thanh Miện – Hải Dương. Ông là học trò của Trạng Trình – Nguyễn Bỉnh Khiêm. Các tác phẩm của ông đã đóng góp rất lớn cho nền văn học trung đại Việt Nam. Điển hình là “Truyền kỳ Mạn Lục” gồm có hai mươi câu chuyện nhỏ. Trong đó tiêu biểu là chuyện người con gái Nam Xương là câu chuyện thứ 16 của “Truyền Kỳ Mạn Lục”, được bắt đầu từ truyện cổ tích “vợ chàng Trương”. Truyện thể hiện niềm thương cảm sâu sắc của tác giả trước số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, đồng thời ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của họ qua nhân vật chính Vũ Nương.
Trước tiên, Vũ Nương là người phụ nữ mang nhiều phẩm chất tốt đẹp. Nàng là người phụ nữ bình dân xuất thân từ gia đình nghèo nhưng vừa có nhan sắc, vừa có đức hạnh. Tính đã thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp.
Vẻ đẹp của Vũ Nương là vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam – của “chiếc bánh trôi” trong thơ của Hồ Xuân Hương “vừa trắng lại vừa tròn”. Vì vậy Trương Sinh con nhà hào phú đã xin với mẹ trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ, cuộc hôn nhân ấy vốn không bình đẳng, đã vậy Trương Sinh lại có tính đa nghi, hay ghen. Nhưng trong đạo vợ chồng, nàng tỏ ra là một phụ nữ thông minh, đôn hậu, biết chồng có tính đa nghi hay ghen nàng đã “luôn giữ gìn khuôn phép… thất hòa”. Điều ấy chứng tỏ nàng rất khéo léo trong việc vun vén hạnh phúc gia đình.
Sống trong thời loạn lạc nên cuộc sum vầy chưa được bao lâu thì Trương Sinh tòng quân đi lính nơi biên ải. Buổi tiễn chồng ra trận nàng rót chén rượu đầy chúc chồng bình yên “chàng đi chuyến này thiếp chẳng mong… thế là đủ rồi”. Ước mong của nàng thật giản dị chỉ vì nàng coi trọng hạnh phúc gia đình hơn mọi công danh phù phiếm ở đời. Những năm xa cách Vũ Nương thương nhớ chồng khôn xiết kể: “Mỗi khi bướm lượn đầy vườn mây che kín núi thì nỗi buồn chân trời góc bể lại không thể nào ngăn được”.
Tâm trạng thương nhớ ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của nhiều người chinh phụ trong thời loạn lạc ngày xưa:
(Chinh phụ ngâm khúc, Đoàn Thị Điểm)
Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau xa cách chồng của Vũ Nương vừa ca ngợi tấm lòng chung thủy của nàng.
Không chỉ là một người vợ chung thủy, Vũ Nương còn là một người mẹ hiền, người con dâu hiếu thảo, chàng ra trận vừa tròn tuần thì nàng sinh con nuôi dạy con khôn lớn. Để bù đắp thiếu vắng cha của con nàng chỉ chiếc bóng của mình trên tường và nói là cha Đản, còn với mẹ chồng già yếu nàng chăm sóc mẹ rất chu đáo, thuốc thang phụng dưỡng như cha mẹ đẻ của mình. Nàng đã làm chọn chữ “công” với nhà chồng. Đây là điều rất đáng trân trọng của Vũ Nương bởi thời xưa quan hệ mẹ chồng nàng dâu dường như chưa bao giờ êm đẹp và chứa đầy những định kiến khắt khe.
Tấm lòng của nàng đã được người mẹ chồng ghi nhận, điều này thể hiện qua những lời trăn trối của bà trước khi qua đời “Sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức giống dòng tối tươi, xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Vũ Nương chính là người phụ nữ lý tưởng trong xã hội ngày xưa: Công, dung, ngôn, hạnh.
Là người phụ nữ có bao phẩm chất tốt đẹp đáng lẽ nàng phải được hưởng cuộc sống hạnh phúc chí ít cũng như nàng mong ước đó là thú vui nghi gia, nghi thất – vợ chồng con cái sum họp bên nhau. Thế nhưng cuộc sống của Vũ Nương cũng như cuộc đời của người phụ nữ xưa là những trang buồn đầy nước mắt. Bất hạnh của nàng bắt đầu từ khi giặc tan Trương Sinh trở về, chuyện cái bóng của con thơ đã là Trương Sinh ngờ vực, rồi kết tội Vũ Nương. Chàng đinh ninh là vợ hư, nàng hết lời phân trần để bày tỏ lòng thủy chung, cố gắng hàn gắn hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ những tất cả đều vô ích. Vốn có tính hay ghen lại vũ phu ít học.
Trương Sinh đã đối xử với nàng hết sức tàn nhẫn “mắng nhiếc, đánh đuổi nàng đi”, bỏ ngoài tai những lời phân trần của vợ và những lời khuyên can của hàng xóm. Thất vọng đến tột cùng Vũ Nương đành mượn dòng nước quê hương để giải tỏa nỗi lòng trong trắng của mình. Nàng “tắm gội chay sạch ra bến sông Hoàng Giang ngửa cổ lên trời là than rằng kẻ bạc mệnh này duyên hẩm hiu… phỉ nhổ”. Nói rồi nàng nhảy xuống sông tự vẫn. Vũ Nương bị người thân nhất đẩy xuống bên bờ vực thẳm dẫn đến bi kịch gia đình.
Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương (thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến) qua “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, “thà chết trong còn hơn sống đục” với tấm lòng yêu thương con người Nguyễn Dữ không để cho sự trong sáng cao đẹp của Vũ Nương phải chịu oan khuất nên phần cuối chuyện đầy ắp những chi tiết hoang đường kì ảo. Sau câu chuyện của Phan Lang, Trương Sinh lập đàn giải oan cho vợ. Nàng trở về trong thế rực rỡ uy nghi nhưng chỉ thấp thoáng trong giây lát rồi biến mất mãi mãi. Vũ Nương mãi mất đi quyền sống, quyền hạnh phúc, quyền làm vợ, làm mẹ. Bi kịch của Vũ Nương cũng chính là bi kịch của người phụ nữ xã hội xưa. Bi kịch ấy không chỉ dừng ở thế kỉ XVI, XVII, XVIII mà đến đầu thế kỷ XIX Nguyễn Du từng viết trong truyện Kiều:
Với niềm xót thương sâu sắc, Nguyễn Dữ lên án những thế lực tàn ác chà đạp lên những khát vọng chính đáng của con người – của phụ nữ. Ông tố cáo xã hội phong kiến với những hủ tục phi lý, trọng nam khinh nữ, đạo tam tòng bao bất công và hiện thân của nó là nhân vật Trương Sinh, người chồng ghen tuông mù quáng, vũ phu sống với hủ tục là thế lực đồng tiền bạc án nên Trương Sinh con nhà hào phú một lúc bỏ ra trăm lạng vàng để cưới Vũ Nương. Ngoài ra ông còn tố cáo chiến tranh phi nghĩa đã làm phá vỡ hạnh phúc gia đình của con người.
Như vậy bằng cách xây dựng truyện hết sức độc đáo là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố tự sự, trữ tình và yếu tố thực ảo. Chuyện “Người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ mang đến cho chúng ta bao ấn tượng tốt đẹp. Truyện ca ngợi Vũ Nương có đầy đủ phẩm chất tốt đẹp mang tính truyền thống nhưng cuộc đời nàng lại là những trang buồn đầy nước mắt. Vẻ đẹp số phận của nàng cũng là vẻ đẹp số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến cũ. Ngày nay chúng ta được sống trong thế giới công bằng dân chủ, văn minh người phụ nữ là một nửa của thế giới họ được hưởng những quyền lợi mà nam giới được hưởng. Vậy chúng ta hãy phát huy những vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ xưa và thương cảm trước số phận của họ
Ngàn năm trôi qua, làn khói viếng “miếu vợ chàng Trương” vẫn muôn đời lan tỏa, vấn vương, như tiếc như thương cho số phận đầy bi kịch của Vũ Nương. Bằng ngòi bút đầy trân trọng trong “Chuyện người con gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ đã tạc vào lịch sử văn học Việt Nam hình ảnh một người phụ nữ thời phong kiến, một Vũ Nương, đại diện cho cái đẹp hoàn mỹ. Nhưng đáng tiếc thay, cuộc đời nàng lại chất chứa những trang buồn đầy nước mắt.
Tên nàng là “Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương”, đã đẹp người lại đẹp nết. Trương Sinh, chồng nàng, là một người thất học lại thêm tính đa nghi. Khi binh đao loạn lạc, Trương phải ra trận. Một tuần sau, nàng sinh con trai đầu lòng và một mình chăm sóc mẹ chồng, lo tang khi mẹ chồng mất. Giặc tan, chàng Trương về, nghe lời con trẻ mà nghi ngờ lòng thủy chung của vợ. Vũ Nương không minh oan được nên đành trẫm mình, nhưng nàng được Linh Phi ở động Rùa cứu giúp. Sau đó, nàng gặp Phan Lang, người hàng xóm đã cứu Linh Phi, nhờ Phan Lang gửi hộ lời với chàng Trương. Trương Sinh hối cải, lập đàn giải oan theo lời Vũ Nương. Nàng hiện lên gặp chồng con rồi lại quay về động Rùa vì hai người đã “âm dương đôi đường”. Nhưng hình ảnh Vũ Nương không dừng lại ở đó mà còn mãi vấn vương trong lòng người đọc bởi nét đẹp hoàn mỹ cũng như số phận oan khuất và cái chết đầy bi thảm của nàng.
Vũ Nương chính là đại diện cho vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến. Không như Nguyễn Du miêu tả thật tinh tế nét đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” của Thúy Kiều, Nguyễn Dữ chỉ điểm qua nhẹ nét đẹp của Vũ Nương: “tư dung tốt đẹp”. Nhưng chỉ bằng một chi tiết nhỏ ấy, tác giả đã phần nào khắc họa được hình ảnh một cô gái có nhan sắc xinh đẹp. Cũng bởi “mến vì dung hạnh” nên chàng Trương đã lấy nàng làm vợ. Nhưng chữ “dung” ấy, vẻ đẹp hình thức ấy, chẳng thể nào tỏa sáng ngàn đời như vẻ đẹp tâm hồn nàng. Vũ Nương “vốn con kẻ khó”, sống rất mực tuân theo “tam tòng tứ đức”, giữ trọn lề lối gia phong và phẩm hạnh của chính mình. Thế nên, nàng rất “thùy mị, nết na”. Trong gia đình chồng, nàng luôn “giữ gìn khuôn phép, không để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”. Thế là, “hạnh”, một trong những tiêu chuẩn đánh giá con người, nàng đã vẹn tròn. Lễ nghĩa, nàng cũng thông hiểu, am tường. Tuy chẳng phải tiểu thư khuê các, con nhà quyền quý nhưng lời nàng nói ra dịu dàng như vàng như ngọc. Ngày tiễn chồng ra trận, nàng đã dặn rằng: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Từng lời, từng chữ nàng thốt ra thấm đẫm tình nghĩa vợ chồng thủy chung, son sắt, khiến “mọi người đều ứa hai hàng lệ”. Phận làm vợ, ai chẳng mong phu quân mình được phong chức tước, áo gấm về làng. Còn nàng thì không. Nàng chỉ ước ao giản dị rằng chàng Trương trở về được bình yên để có thể sum họp, đoàn tụ gia đình, hạnh phúc ấm êm như ngày nào. Nhưng mong ước của nàng đã không thực hiện được. Bị chồng một mực nghi oan, Vũ Nương tìm mọi lời lẽ để chứng minh sự trong sạch của mình. Nàng vẫn đoan trang, đúng mực, chỉ nhẹ nhàng giải thích: “Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng. Ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Xin chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Lời nói của nàng luôn từ tốn, nhẹ nhàng, không quá hoa mỹ nhưng chất chứa nghĩa tình. Chỉ qua những lời thoại, từ “ngôn” của Vũ Nương đã để lại một ấn tượng khó phai trong lòng người đọc bởi vẻ từ tốn, tế nhị của nàng. Và cũng từ những câu nói ấy, chúng ta cảm nhận được sự hy sinh vô bờ của nàng vì chồng con, gia đình. Khi chồng ra trận, cả giang san nhà chồng trĩu nặng trên đôi vai gầy guộc, mỏng manh của nàng. Nàng phải sinh con một mình giữa nỗi cô đơn lạnh lẽo, thiếu sự vỗ về, an ủi của người chồng. Thật là một thử thách quá khó khăn với một người phụ nữ chân yếu tay mềm. Nhưng nàng vẫn vượt qua tất cả, một mình vò võ nuôi con khôn lớn, đợi chồng về. Không những thế, nàng còn hết lòng chăm lo cho mẹ chồng ốm nặng: “Nàng hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Thời xưa, quan hệ mẹ chồng – nàng dâu dường như chưa bao giờ êm đẹp và chứa đầy những định kiến khắt khe.
Nhưng nàng đã yêu thương mẹ chồng như chính cha mẹ ruột của mình. Mọi việc trong nhà đều được nàng chăm lo chu tất. Và lời trăn trối cuối cùng của mẹ chồng như một lời nhận xét, đánh giá, một phần thưởng xứng đáng với những công lao và sự hy sinh cao cả của nàng vì gia đình nhà chồng: “Xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Tác giả đã một lần nữa nhắc lại: “Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như với cha mẹ đẻ mình”, như tô đậm tình yêu thương của nàng đối với mẹ chồng. Vũ Nương là một nàng dâu đảm đang, thảo hiền trong mắt tất cả mọi người. Vậy là cả “công – dung – ngôn – hạnh” nàng đều vẹn toàn. Nàng chính là đỉnh cao của sự hoàn mỹ về cả vẻ đẹp hình thức lẫn tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam xưa dưới chế độ phong kiến. Song, số phận chẳng hề mỉm cười với nàng.
Cuộc đời Vũ Nương tiêu biểu cho số phận oan trái của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến. Nàng gặp bao bất hạnh trên đường đời. Chiến tranh tàn khốc đã khiến bao gia đình ly tán. Trước cảnh đất nước binh đao loạn lạc, Trương Sinh phải đi lính, giao phó cả giang san nhà chồng trên đôi vai bé nhỏ của người thiếu phụ. Tất cả mọi việc trong nhà đều trông cậy vào nàng. “Khi xa chồng vừa đầy tuần thì sinh ra một đứa con trai, đặt tên là Đản”. Thiếu vắng sự quan tâm, săn sóc của người chồng, song nàng vẫn nuôi nấng, dạy dỗ con thơ khôn lớn, trưởng thành. Vừa một mình chăm sóc, thuốc thang cho mẹ chồng, Vũ Nương vừa sinh con trai, lại thầm lặng, tần tảo nuôi con và cũng một mình lo ma chay, chôn cất mẹ chồng chu đáo. Từng ngày từng ngày trôi, bấy giờ, trên đôi vai bé nhỏ của nàng khó khăn lại chồng chất khó khăn. Rồi chiến tranh cũng qua, cứ ngỡ Vũ Nương lại được sum họp gia đình, đoàn viên cùng chàng Trương, được sống trong hạnh phúc lứa đôi mà nàng hằng ao ước. Nàng đâu biết rằng bi kịch cuộc đời nàng sắp bắt đầu. Những ngày xa chồng, nàng đã âm thầm nuôi con, và nàng xót xa biết bao khi nhìn cảnh con thơ thiếu vắng sự chăm sóc, yêu thương của người cha. Thế là nàng đã chỉ bóng mình trên tường mà bảo với con rằng ấy chính là cha Đản. Hành động ấy chẳng phải vì nàng quá thương nhớ chồng mà xuất phát từ tấm lòng yêu thương con vô bờ của một người mẹ. Nhưng nàng sẽ chẳng bao giờ ngờ được rằng nàng chết chính bởi cái bóng của chính mình. Ngày Trương Sinh về, nghe lời con thơ dại mà hàm oan vợ: “Trước đây có người đàn ông đêm nào cũng đến. Mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”. Trương Sinh vốn là tên thất học, lại thêm “tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức”. Lời nói ngây thơ của bé Đản chứa đầy những chi tiết đáng ngờ, như đổ thêm dầu vào lửa. Tính đa nghi của Trương Sinh đã dâng lên đến cao trào và một mực “đinh ninh là vợ hư”. Chàng không còn đủ bình tĩnh để phán đoán, phân tích, bỏ ngoài tai những lời phân trần của vợ, không tin cả những nhân chứng bênh vực cho nàng, cũng nhất quyết không nói ra nguyên cớ để nàng có cơ hội minh oan. Và Trương Sinh thoáng chốc hóa một kẻ vũ phu, thô bạo, “mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi”. Vượt qua được mọi gian lao, vất vả trong chiến tranh để vẹn tròn phận dâu thảo hiền nhưng Vũ Nương không thể vượt qua nổi bức tường của chế độ nam quyền độc đoán, bất công, tàn bạo. Lời nói của nàng đầy thương tâm: “Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”. Ngay từ đầu, cuộc hôn nhân giữa nàng và chàng Trương đã có phần không bình đẳng và mang tính chất một cuộc trao đổi, mua bán: Trương Sinh “xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về”. Điều ấy khiến chúng ta chạnh lòng nhớ đến tình cảnh một Thúy Kiều khi phải bán mình chuộc cha:
Sự cách bức về địa vị xã hội như thế đã tạo cho Trương Sinh một cái thế bên cạnh những uy quyền vốn có của người chồng, người đàn ông trong gia đình gia trưởng phong kiến. Chính cái gia đình “chồng chúa vợ tôi”, “phu xướng phụ tùy” ấy đã khiến nàng bị khinh rẻ, đối xử tệ bạc. Một người vợ vốn đức hạnh, ngoan hiền, vâng theo cả “tam tòng tứ đức” lại phải mang tiếng xấu “hư thân mất nết”. Mọi lời mắng nhiếc của Trương Sinh như chà đạp lên phẩm giá cao đẹp mà nàng đã gìn giữ cả một đời. Khi xa chồng, Vũ Nương là người vợ thủy chung, yêu chồng tha thiết, nỗi buồn nhớ cứ dài theo những “bướm lượn đầy vườn”, “mây che kín núi”. Thế mà khi vừa mới sum họp hạnh phúc, nàng lại bị gán cho tội danh: “lừa chồng dối con”. Thật đau đớn, thật tủi nhục! Bi kịch của cuộc đời Vũ Nương chính từ lễ giáo bất công và chế độ nam quyền. Người đàn ông với những quyền hành về số phận, cuộc đời người phụ nữ đã đẩy Vũ Nương vào đường cùng không lối thoát. Cái chết oan khuất, xót xa của Vũ Nương, ai có thể ngờ người gây ra thảm kịch ấy chính là chồng và con nàng, những người thân mà nàng hết mực yêu thương, chăm sóc. Nàng, một người con gái luôn khao khát hạnh phúc dù chỉ nhỏ nhoi, bình dị nhưng cho đến khi trẫm mình xuống sông thì cuộc đời nàng đúng là một chuỗi dài những bi kịch. Hạnh phúc đâu quá xa vời mà xã hội phong kiến ấy không cho nàng chạm tay đến tận hưởng “thú vui nghi gia nghi thất” một lần duy nhất trong đời. Nỗi oan của nàng thấu cả trời xanh. Ngày xưa, Quan Âm Thị Kính mắc oan giết chồng bởi “tình ngay lý gian”. Nhưng nàng Thị Kính cũng còn hiểu ra nỗi oan khuất của mình từ đâu mà thành. Còn khi đã chìm sâu dưới dòng nước, Vũ Nương vẫn không hề biết rằng mình phải chết vì đâu. Bi kịch của Vũ Nương là một lời tố cáo xã hội phong kiến xem trọng quyền uy của kẻ giàu và của người đàn ông trong gia đình, đồng thời bày tỏ niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ. Người phụ nữ đức hạnh không những không được bênh vực, che chở mà lại còn bị đối xử một cách bất công, vô lý; chỉ vì lời nói ngây thơ của đứa trẻ miệng còn hôi sữa và vì sự hồ đồ, vũ phu của anh chồng ghen tuông mà đến nỗi phải kết liễu cuộc đời mình. Phải chăng đằng sau nỗi oan của nàng còn bao nhiêu nỗi oan của những người phụ nữ khác trong chế độ phong kiến bị rẻ rúng, suốt đời sống trong câm lặng.
Xót thương trước nỗi đau khổ vì bị chà đạp của những người phụ nữ, Nguyễn Dữ như muốn minh oan và bù đắp cho những đức tính tốt đẹp của nàng bằng một cuộc sống khác với dương gian. Nhưng ở chốn “làng mây cung nước”, Vũ Nương chẳng thể nào nguôi nỗi nhớ về những oan ức, bĩ cực ở cõi trần. Sống giữa cõi tiên huyền ảo, đẹp diệu kỳ nhưng nàng dường như không bao giờ dứt tình nghĩa gia đình, mãi khóc thương cảnh gia đình tiêu điều xơ xác. Nàng xin lập đàn giải oan, khao khát được trả lại danh dự của một người con gái đức hạnh. Và cuối cùng, nỗi oan của nàng đã được giải. Từ chốn thủy cung, Vũ Nương “ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng, rực rỡ sắc màu, lúc ẩn, lúc hiện”. Nhưng xót xa thay, nàng “chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Nỗi oan tình của nàng đã được minh oan, giải tỏa nhưng âm dương đôi đường cách trở, nàng chẳng bao giờ được làm vợ, làm mẹ chốn cõi trần. Bé Đản mãi mãi là một đứa bé mồ côi mẹ. Nếu nàng được trở về với cõi trần thì liệu xã hội phong kiến bất công không có nơi dành cho cái đẹp này có dành cho nàng một cuộc sống ấm êm, bình yên, hay một lần nữa, nàng phải đau đớn, buồn khổ. Dù quay về chốn tiên cảnh xinh đẹp, nhưng cuối cùng, mơ ước cả đời của nàng, hạnh phúc “nghi gia nghi thất”, chỉ mãi là ước mơ hảo huyền.
Hình tượng nhân vật Vũ Nương là hiện thân của lòng vị tha và vẻ đẹp người phụ nữ. Song cuộc đời nàng gặp nỗi bi kịch lớn. Ấy chính là tấn bi kịch của người phụ nữ Việt Nam trong chế độ phong kiến tàn ác, chế độ của sự lạc hậu và cả bóng đêm vĩnh cửu. Điều đó khiến chúng ta phải chạnh lòng trước số phận của người phụ nữ.
Nguyễn Dữ là nhà văn xuất sắc trong nền văn học trung đại Việt Nam. Ông học rộng tài cao, nhưng chỉ làm quan một năm rồi lui về ở ẩn vì bất lực trước thời đại suy yếu của phong kiến. Có thể nói “truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ là một tác phẩm tiêu biểu cho thể loại truyền kỳ ở Việt Nam, trong đó “người con gái Nam Xương” dựa trên tích truyện dân gian nhưng với tài năng sự sáng tạo tuyệt vời và lòng yêu con người tha thiết, Nguyễn Dữ đã làm bao bạn đọc phải rơi lệ xót thương cho cuộc đời và số phận của Vũ Nương – một người phụ nữ đức hạnh nhưng có số phận bất hạnh.
Mở đầu trang truyện, tác giả Nguyễn Dữ đã giới thiệu Vũ Nương là một người con gái: “thùy mị, nết na, tư dung tốt đẹp”. Mặc dù con nhà nghèo lấy chồng giàu lại có tính đa nghi ít học nhưng do hiền lành nết na lại thông minh, khéo cư xử nên nàng đã san bằng được khoảng cách “môn đăng hộ đối” – một quan điểm nặng nề của lễ giáo phong kiến và giữ được không khí trong gia đình yên ấm, hạnh phúc “chưa từng xảy ra thất hòa”. Có thể nói cuộc đời nàng tuy ngắn ngủi nhưng nàng đã làm tròn bổn phận của một người vợ hiền, một người dâu thảo, người mẹ hết mực yêu con. Trước hết, Vũ Nương là người vợ hết lòng yêu thương và thủy chung son sắc với chồng. Sống dưới thời loạn lạc vì không có học nên tên Trương Sinh phải ghi vào sổ lính loại đầu. Trong buổi tiễn đưa chồng ra trận, nàng rót chén rượu đầy tiễn chồng bằng lời lẽ dịu dàng, tha thiết “chàng đi chuyến này thiếp chả dám mong đeo được ấn phong hầu mặc áo gấm trở về quê cũ chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên thế là đủ rồi”. Đọc đến đây, người đọc xúc động trước khao khát, ước mơ bình dị của Vũ Nương. Đằng sau niềm khao khát ước mơ ấy là cả một tấm lòng yêu thương chân thành, đằm thắm vượt ra ngoài cám dỗ vật chất tầm thường “vinh hoa phú quý”. Yêu thương chồng, nàng mong mỏi ngày chàng bình yên trở về bởi hơn hết trong lòng nàng cái khát khao lớn nhất là được hưởng thú vui “nghi gia nghi thất” vợ chồng sum họp, con cái đầy đàn, nàng được làm trọn và hưởng hạnh phúc làm mẹ, làm vợ, Khi Trương Sinh ở ngoài mặt trận, tình cảm của nàng luôn hướng về Trương Sinh. Hình ảnh “bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi” là hình ảnh thiên nhiên hữu tình gợi sự trôi chảy của thời gian đã khiến cho “nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Tác giả đã diễn tả thật tinh tế chân thực nỗi niềm nhớ nhung, mong mỏi kín đáo, âm thầm mà da diết của Vũ Nương. Vào mỗi buổi tối, nàng thường trở bóng mình trên vách để bảo là cha Đản, việc làm ấy của nàng đâu chỉ là đơn thuần chỉ để chơi đùa nói với con mà còn là lời nói với mình lòng mình để tự an ủi mình, nàng tưởng tượng ra trong căn nhà nhỏ bé của hai mẹ con lúc nào cũng có hình bóng của Trương Sinh, ý nghĩ ấy là làm vơi đi nỗi cô đơn trống trải trong lòng nàng. Suốt ba năm Trương Sinh đi vắng, nàng đã giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn đã từng nguôi lòng ngõ liễu tường hoa chưa hề bén góc vẫn một lòng một dạ với chồng Trương Sinh.
Không chỉ vậy, Vũ Nương còn là một người con dâu hiếu thảo. Trong lúc chồng đi vắng, nàng gánh vác mọi công việc, vượt cạn một mình, thay chồng phụng dưỡng mẹ già, nuôi dạy con thơ mà không một lời kêu than phàn nàn. Khi mẹ chồng ốm, nàng hết lòng thương xót lo ma chay chu đáo như mẹ đẻ của mình. Lời của mẹ chồng trước lúc lâm chung “sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức giống dòng tươi tố con cháu đông đàn xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ” đã minh chứng cho tấm lòng yêu thương chân thành của người con có hiếu. Nàng là người mẹ hết lòng yêu thương, chăm sóc dạy dỗ con, vào mỗi buổi tối nàng thường chỉ cái bóng trên vách và bảo là cha Đản không chỉ để nô đùa cùng con mà còn mong con luôn nhớ tới hình bóng của người ba, nàng còn là người phụ nữ trọng nhân phẩm. Khi bị vu oan, Vũ Nương đã hết lời tha thiết, thanh minh thề non nguyện biển nhưng không được, nhân phẩm trong trắng bị xúc phạm nặng nề bởi nỗi nhơ thất tiết, nàng đã phải chọn cái chết để minh chứng cho tấm lòng trong sáng, thủy chung của mình. Mặc dù khát khao được sống được hàn gắn hạnh phúc gia đình nhưng nàng cũng quyết đổi mạng sống của mình để bảo vệ nhân phẩm – cái mà nàng quý hơn tất cả, yếu tố kỳ ảo được dùng đã làm hoàn thiện hơn vẻ đẹp của Vũ Nương, ta hiểu thêm nàng là người nhân hậu, bao dung, ở dưới thủy cung được sống đầy đủ sung sướng quan hệ giữa người với người tốt đẹp nhưng lúc nào nàng cũng đau đáu nhớ về gia đình, chồng con, Câu nói của nàng với Phan Lang khiến người đọc rưng rưng nước mắt “… ngựa hồ gầm gió bắc, chim Việt đậu cành nam, tôi tất phải tìm về có ngày”. Lẽ ra nàng có quyền căm thù nơi trần thế đã đẩy nàng vào cái chết oan khuất nhưng trái tim nàng không một chút oán hờn, vẫn nhân hậu vị tha, bao dung. Qua đây, người đọc cảm nhận được Vũ Nương là một người phụ nữ có phẩm chất đức hạnh.
Nhưng hỡi ơi! Thương thay cho số phận oan nghiệt của Vũ Nương, một người phụ nữ cả đời hy sinh để mong muốn được hạnh phúc như Vũ Nương lại phải chết một cách oan khuất, không được hưởng những gì mình đã hi sinh. Nàng phải gặp tình duyên ngang trái khi nàng vẫn còn xuân. Nguyễn Dữ đã cảm thương cho Vũ Nương, người phụ nữ nhan sắc đức hạnh lại phải lấy Trương Sinh – một kẻ vô học, hồ đồ, vũ phu. Thương tâm hơn khi người chồng đó còn có tính đa nghi đối với vợ lúc nào cũng “phòng ngừa quá sức”, lấy chồng chưa được bao lâu, nàng đã phải tiễn biệt chồng lên đường đánh giặc. Trương sinh đi lính để lại gánh nặng cho người vợ trẻ, Vũ Nương thay chồng nuôi mẹ và con. Sau khi mẹ chồng mất, chỉ còn hai mẹ con Vũ Nương trong căn nhà trống vắng cô đơn. Đọc đến đây, người đọc không khỏi chạnh lòng xót thương cho cho cảnh người vợ trẻ chỉ biết san sẻ buồn vui với đứa con thơ dại. Việc quân kết thúc, Trương Sinh từ miền xa chinh chiến trở về nhưng Vũ Nương không được hưởng hạnh phúc trong cảnh vợ chồng sum họp chỉ vì chuyện “chiếc bóng” qua miệng đứa con thơ mới tập nói mà Trương Sinh đã “đinh ninh” là vợ hư liền mắng nhiếc, đuổi Vũ Nương đi. Trương Sinh bỏ ngoài tai mọi lời bày tỏ van xin đến rướm máu, lời biện bạch của họ hàng, làng xóm. Nàng đã bị chồng đẩy vào bi kịch bị ghép ngay vào tội không chung thủy, một trong những tội bị người đời phỉ nhổ, nguyền rủa nhất của người phụ nữ phong kiến thời xưa. Nhân phẩm mà nàng coi trọng nhất, quý giá nhất và ra sức giữ gìn thì nay lại bị xúc phạm nặng nề, có thể khẳng định nỗi đau mà nàng phải gánh chịu là quá lớn, nàng đã bị đẩy vào bước đường cùng vào vực thẳm của cuộc đời, nàng phải chọn cái chết trong khi nàng vẫn khao khát được hưởng hạnh phúc gia đình.
Tại sao Vũ Nương lại phải chết một cách oan khuất như vậy? phải chăng là lời nói ngây ngô, vô tình của con trẻ “Ô hay thế ra ông cũng là cha tôi ư? ông lại biết nói chứ không như cha tôi, trước khi chỉ nín thin thít… đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi” đã làm thổi bùng lên ngọn lửa sẵn có trong lòng Trương Sinh, không đâu khác, chính là do chồng nàng – Trương Sinh, một kẻ hồ đồ phũ vu lại ghen tuông, độc đoán, chỉ vì lời nói ngây thơ của con trẻ mà đã đinh ninh là vợ hư, bỏ mặc ngoài tai những lời thanh minh biện bạch của vợ, lời bênh vực của họ hàng, làng xóm, để rồi đẩy Vũ Nương vào cái chết oan nghiệt. Đằng sau trang văn, truyện còn nói lên do lễ giáo phong kiến “trọng nam khinh nữ” và sự bất bình đẳng của kẻ giàu và người nghèo. Đồng thời, còn do chiến tranh phong kiến phi nghĩa đã gây lên cảnh sinh ly, Trương Sinh phải đi lính, Vũ Nương phải chịu nỗi oan, để rồi Vũ Nương phải tìm đến cái chết thê thảm, oan khuất. Tất cả những nguyên nhân trên đã đẩy Vũ Nương đến bước đường cùng phải chọn cái chết để bảo vệ nhân phẩm của mình, cái chết của Vũ Nương chính là tấm bi kịch đau thương, cái chết oan khuất tức tưởi của nàng là một lời tố cáo đanh thép xã hội phong kiến bất công, vô lý, đã cướp đi quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc của con người.
Như vậy, “Chuyện người con gái Nam Xương” đã vượt lên tư cách một bản lề của truyện cổ tích, “Vợ chồng Trương” bởi sự tái tạo đầy tính nghệ thuật của Nguyễn Dữ, tác giả đã xây dựng được tình huống truyện bất ngờ, tạo nên kịch tính cho câu chuyện với lời nói ngây thơ của bé Đản dẫn đến sự hiểu lầm của Trương Sinh, thành công của truyện hơn tất cả là tác giả đã sử dụng yếu tố hoang đường góp phần tăng thêm tính hiện thực và ý nghĩa nhân văn của tác phẩm, hoàn thiện hơn vẻ đẹp của Vũ Nương – một người phụ nữ điển hình trong văn học Việt Nam thế kỷ XVI. Đó là một phụ nữ hoàn hảo nhưng lại có số phận éo le, bi đát. Cũng giống như Vũ Nương trong xã hội phong kiến xưa còn có biết bao thân phận của người phụ nữ phải sống trong cảnh đời như vậy như hình ảnh của người phụ nữ trong bài thơ “bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương.
Hay trong “truyện Kiều” của Nguyễn Du có viết:
Tóm lại, “chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ là một áng văn hay – tiêu biểu cho thể loại truyền kỳ và được người đời đánh giá là “thiên cổ kỳ bút”. Truyện vừa thể hiện số phận bi đát của người phụ nữ trong xã hội phong kiến vừa có ý nghĩa cơ ngợi vẻ đẹp của lòng vị tha – tiêu biển là hình ảnh Vũ Nương, qua câu chuyện người đọc càng cảm thấy giá trị cuộc sống của người phụ nữ trong xã hội ngày nay. Họ đang phấn đấu vươn lên làm chủ cuộc đời, chủ số phận và họ – những người phụ nữ hiện đại phải được sống bình đẳng, được mọi người tôn trọng như nam giới.
Số phận người phụ nữ trong xã hội xưa luôn là một đề tài được nhiều nhà văn, nhà thơ khai thác. Trong nền văn học Trung đại, có không ít những tác phẩm đã viết về đề tài ấy. Và “Chuyện người con gái Nam Xương” cũng vậy. Qua tác phẩm, hình ảnh nhân vật Vũ Nương được Nguyễn Dữ khắc họa đầy chân thực.
Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, không chỉ xinh đẹp mà còn có tư dung tốt đẹp. Điều ấy khiến cho Trương Sinh – một chàng trai trong làng yêu mến, xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Trong cuộc sống vợ chồng, biết chồng là một người hay ghen, nàng luôn sống giữ gìn khuôn phép để gia đình hòa thuận. Vậy mà chồng nàng, sau khi đi lính chỉ vì một lời ngây thơ của con trẻ, chưa làm rõ đầu đuôi câu chuyện đã giở thói ghen tuông. Dù Vũ Nương hết lòng giải thích nhưng vẫn vô dụng. Nàng quyết định tìm đến cái chết để chứng minh sự trong sạch của mình. Sau này, khi đã hiểu rõ mọi chuyện, Trương Sinh cảm thấy hối hận thì cũng đã muộn. Chàng cho người lập đàn giải oan cho vợ, Vũ Nương hiện về lúc ẩn lúc hiện.
Chỉ với vài lời giới thiệu đơn giản, Nguyễn Dữ đã khắc họa cho người đọc thấy được hình ảnh một người phụ nữ mang đậm nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Nàng không chỉ xinh đẹp ở bên ngoài mà còn mang những nét đẹp bên trong tâm hồn. Đó là một người vợ hết mực hiểu chuyện, lễ nghĩa. Biết chồng có tính hay nghi, luôn phòng ngừa vợ quá mức nhưng nàng vẫn không tủi thân mà cố gắng sống giữ gìn để gia đình luôn hòa thuận. Đến khi chồng phải đi lính, nàng cùng không nửa lời oán trách mà còn ân cần, dịu dàng dặn dò: “Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi…”. Người vợ nào mà không mong muốn chồng mình được thành danh, nhưng đối với Vũ Nương, nàng chỉ mong chồng bình yên trở về. Đó chính là một khát khao hết sức bình dị, thiết thực của người phụ nữ luôn mong muốn có được hạnh phúc.
Trong suốt những năm chồng nàng đi lính, Vũ Nương là một người phụ nữ nhưng lại gánh vác trách nhiệm của một trụ cột gia đình. Nàng vừa phải dạy dỗ con thơ, vừa phải chăm sóc mẹ chồng. Khi mẹ chồng ốm đau vì nhớ con trai, nàng đã hết lời khuyên bảo. Khi mẹ chồng mất, nàng “hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ; lo liệu như đối với cha mẹ sinh ra”. Quả hiếm có người con dâu nào được như Vũ Nương. Với đứa con thơ, vì thương con phải xa cha từ nhỏ, mong muốn con có một gia đình đầy đủ. Người mẹ ấy đã nói dối đứa trẻ cái bóng chính là cha của mình. Sau khi đi lính trở về, tưởng rằng giờ đây cuộc sống sẽ được hạnh phúc, nhưng ai ngờ cuộc đời Vũ Nương lại trở nên bất hạnh. Trương Sinh nghe tin mẹ già đã mất, hết sức đau lòng, liền bế con ra mộ thăm mẹ. Khi thấy đứa trẻ quấy khóc bèn dỗ dành: “Con nín đi, đừng khóc! Lòng cha đã buồn khổ lắm rồi!”. Đứa bé ngây thơ hỏi cha: “Ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha trước kia chỉ nín thin thít”. Điều đó khiến Trương Sinh nghĩ rằng vợ mình ở nhà đã có người đàn ông khác. Vũ Nương trở về bị chồng nghi ngờ mắng nhiếc. Dù tủi thân nhưng vẫn hết lời giải thích. Biết là vô tác dụng, nàng liền tìm đến cái chết để chứng minh sự trong sạch của mình. Thật xót xa cho số phận của một người phụ nữ xinh đẹp mà bạc mệnh. Chỉ vì lời ngây thơ của con trẻ, sự đa nghi của chồng mà phải tìm đến cái chết.
Nhưng Vũ Nương không chết thật, nàng được đức Linh Phi cứu và sống ở thủy cung. Khi gặp lại Phan Lang- một người sống cùng làng tình cờ cũng được Linh Phi cứu thoát chết dưới thủy cung liền giãi bày nỗi oan khuất của mình. Nàng gửi nhờ Phan Lang “một chiếc hoa vàng mà dặn”: “Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa, nên lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây thần đăng chiếu xuống nước, tôi sẽ hiện về”. Lúc bấy giờ, Trương Sinh đã hiểu rõ mọi chuyện, bèn lập đàn giải oan cho nàng, Vũ Nương hiện về thăm lại hai cha con. Dường như kết thúc của câu chuyện mà tác giả xây dựng đã thể hiện được niềm cảm thông và mong muốn về một cuộc sống hạnh phúc cho người phụ nữ xưa.
Cuộc đời của Vũ Nương, vốn đã không được lựa chọn tình yêu, hôn nhân. Mà nàng phải chịu sự sắp đặt của cha mẹ. Cuộc hôn nhân của nàng và Trương Sinh cũng gặp nhiều bất hạnh. Chiến tranh đã chia cắt hai vợ chồng để rồi chính chiến tranh cũng góp phần cho sự hiểu lầm của Trương Sinh. Sự ghen tuông, đa nghi của chồng cũng khiến nàng phải tìm đến cái chết mới có thể rửa sạch nỗi oan khuất. Tất cả những nguyên nhân ấy đã khiến cho cuộc đời của nàng trở nên bất hạnh hơn hết.
Nguyễn Dữ đã khắc họa hình ảnh nhân vật Vũ Nương giúp cho người đọc thấu hiểu sâu sắc cuộc đời của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Qua đó, chúng ta cũng cảm thông hơn cho số phận của họ.
“Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong hai mươi truyện của “Truyền kì mạn lục”. Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương, truyện đã thể hiện niềm cảm thương sâu sắc đối với số phận của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến xưa.
Đọc những dòng đầu tiên của “Chuyện người con gái Nam Xương”, hình ảnh nhân vật Vũ Nương khiến cho người đọc cảm thấy ấn tượng: “Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương. Người đã thùy mị nết na, lại thêm có tư dung tốt đẹp”. Vũ Nương chính là một đại diện cho người phụ nữ trong xã hội phong kiến với đầy đủ những phẩm chất: công, dung, ngôn, hạnh. Tưởng rằng xinh đẹp tài năng là thế sẽ được hưởng hạnh phúc, nhưng cuộc đời sau này lại chịu nhiều bất hạnh:
(Nguyễn Du)
Nàng là một người vợ biết giữ gìn khuôn phép, không để vợ chồng bao giờ phải thất hòa. Đến khi chồng phải đi lính, nàng cùng không nửa lời oán trách mà còn ân cần, dịu dàng dặn dò: “Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi…”. Vũ Nương không mong muốn chồng trở về với vinh hoa phú quý hay công danh sự nghiệp, mà nàng chỉ mong muốn bình yên”. Một ước mong giản dị nhưng lại thể hiện được tình yêu thương sâu sắc dành cho chồng. Bởi bước ra nơi chiến trường là đối đầu với hiểm nguy, chết chóc. Nên hy vọng chồng có thể trở về bình yên chính là điều thiết thực nhất.
Năm tháng không có chồng ở nhà, dù phải một mình nuôi con, chăm sóc mẹ chồng nhưng Vũ Nương chẳng mảy may oán thán lấy một lời. Khi mẹ chồng ốm đau vì nhớ con, nàng vẫn hết lời khuyên bảo. Đến khi mẹ chồng mất, nàng “hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ; lo liệu như đối với cha mẹ sinh ra”. Đứa con thơ còn nhỏ, nàng thương con và mong muốn con có một gia đình đầy đủ. Vũ Nương đã nói dối con, chỉ vào chiếc bóng và bảo rằng đó là cha Đản. Chính vì một lời nói dối vô hại ấy, sau này lại đem đến lại bi kịch cho cuộc đời nàng.
Trương Sinh đi lính trở về, gia đình đoàn tụ, tưởng rằng giờ đây cuộc sống sẽ được hạnh phúc, nhưng ai ngờ cuộc đời Vũ Nương lại trở nên bất hạnh. Nghe tin mẹ mất, hết sức đau lòng, liền bế con ra mộ thăm mẹ. Khi thấy đứa trẻ quấy khóc bèn dỗ dành: “Con nín đi, đừng khóc! Lòng cha đã buồn khổ lắm rồi!”. Đứa bé ngây thơ hỏi cha: “Ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha trước kia chỉ nín thin thít”. Lời nói ngây thơ của con trẻ đã khiến chàng nghi ngờ vợ là thất tiết. Khi trở về, Trương Sinh liền mắng vợ một bữa cho hả giận. Dù Vũ Nương hết sức tủi thân nhưng nàng vẫn hết lời giải thích cho chồng hiểu. Họ hàng, làng xóm bênh vực cũng không ăn thua. Biết là vô tác dụng, nàng liền tìm đến cái chết để chứng minh sự trong sạch của mình. Xót xa thay cho người phụ nữ mang danh là thất tiết, chẳng thể minh oan cho sự trong sạch của bản thân, bị chồng ruồng bỏ và phải tìm đến cái chết để hết tội. Cuộc đời người phụ nữ trong xã hội phong kiến vốn đầy những bất công. Không thể tự mình quyết định tình yêu, hôn nhân và cả cuộc đời.
Nhưng, câu chuyện mang tính nhân văn ở chỗ, tác giả đã xây dựng một kết thúc có hậu cho câu chuyện. Vũ Nương nhảy xuống sông, nhưng được chư tiên trong thủy cung thương mà cứu thoát, sống tại nơi thủy cung và gặp gỡ với Phan Lang – một người vốn sống cùng làng. Trước khi Phan Lang trở về, nàng gửi nhờ Phan Lang “một chiếc hoa vàng mà dặn”: “Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa, nên lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây thần đăng chiếu xuống nước, tôi sẽ hiện về”. Trương Sinh sau khi biết mình đã đổ oan cho vợ, nay lại nghe Phan Lang kể lại câu chuyện dưới thủy cung gặp được Vũ Nương được nàng nhờ vả, liền lập đàn giải oan cho vợ. Vũ Nương hiện về trong làn khói mờ ảo, gia đình ba người được gặp nhau. Một kết thúc không có thật ngoài cuộc sống. Đó giống như là một giấc mơ của nhân dân ta rằng những người tốt rồi sẽ có được hạnh phúc. Nhưng cũng chỉ dừng lại ở ước mơ mà thôi, khi Vũ Nương không thể trở về cuộc sống trần thế, chỉ có thể tiếp tục cuộc sống ở thủy cung.
Tóm lại, qua “Chuyện người con gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ đã giúp người đọc hiểu rõ hơn về cuộc đời của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Cũng như thêm cảm thông, thấu hiểu hơn cho số phận của họ và biết quý trọng cuộc sống bình đẳng của chúng ta trong xã hội hôm nay.
“Truyền kì mạn lục” là một trong những tác phẩm nổi bật trong nền văn học trung đại Việt Nam. Và “Chuyện người con gái Nam Xương” là tác phẩm tiêu biểu nhất trong truyền kì mạn lục. Nổi bật trong truyện là nhân vật Vũ Nương đã trở thành một trong những hình tượng tiêu biểu cho số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa.
Nguyễn Dữ đã xây dựng hình ảnh nhân vật Vũ Thị Thiết – người con gái quê ở Nam Xương, tính tình thùy mị nết na lại có tư dung tốt đẹp. Điều ấy khiến cho Trương Sinh – một chàng trai trong làng đem lòng yêu mến, xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Trong cuộc sống hôn nhân, nàng biết chồng là một người hay ghen nên luôn sống giữ gìn khuôn phép để tránh cảnh bất hòa. Vậy mà chồng nàng, sau khi đi lính chỉ vì một lời ngây thơ của con trẻ, chưa làm rõ đầu đuôi câu chuyện đã giở thói ghen tuông. Vũ Nương đem hết lời lẽ ra giải thích nhưng vô dụng. Nàng quyết định tìm đến cái chết để chứng minh sự trong sạch của mình. Sau này, khi đã hiểu rõ mọi chuyện, Trương Sinh cảm thấy hối hận thì cũng đã muộn. Chàng cho người lập đàn giải oan cho vợ, Vũ Nương hiện về lúc ẩn lúc hiện.
Chỉ với vài lời giới thiệu đơn giản, Nguyễn Dữ đã khắc họa cho người đọc thấy được hình ảnh một người phụ nữ mang đậm nét đẹp truyền thống. Vũ Nương khiến người đọc cảm thấy yêu mến không chỉ bởi vẻ ngoài xinh đẹp mà còn vì nét đẹp trong tâm hồn. Nàng là một người vợ hiểu chuyện, biết lễ nghĩa. Nàng biết chồng có tính đa nghi, luôn phòng ngừa vợ quá mức nhưng vẫn không cảm thấy tủi thân mà cố gắng sống giữ gìn để gia đình luôn hòa thuận. Đến khi chồng phải đi lính, nàng cùng không nửa lời oán trách mà còn ân cần, dịu dàng dặn dò: “Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi…”. Người vợ nào mà không mong muốn chồng mình được thành danh, nhưng đối với Vũ Nương, nàng chỉ mong chồng bình yên trở về. Đối với Vũ Nương đó là một khát khao hết sức bình dị, thiết thực.
Trong suốt những năm chồng đi lính, Vũ Nương phải gánh vác trách nhiệm của một trụ cột gia đình. Nàng vừa phải dạy dỗ con thơ, vừa phải chăm sóc mẹ chồng. Khi mẹ chồng ốm đau vì nhớ Trương Sinh, nàng đã hết lời khuyên bảo. Đến khi mẹ chồng mất, nàng “hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ; lo liệu như đối với cha mẹ sinh ra”. Quả hiếm có người con dâu nào được như Vũ Nương vì quan hệ mẹ chồng nàng dâu từ xưa đến nay vốn chẳng mấy tốt đẹp. Với đứa con thơ, vì thương con phải xa cha từ nhỏ, mong muốn con có một gia đình đầy đủ. Người mẹ ấy đã nói dối đứa trẻ cái bóng chính là cha của mình.
Sau khi đi lính trở về, tưởng rằng giờ đây cuộc sống sẽ được hạnh phúc, nhưng ai ngờ cuộc đời Vũ Nương lại trở nên bất hạnh. Trương Sinh nghe tin mẹ già đã mất, hết sức đau lòng, liền bế con ra mộ thăm mẹ. Chàng thấy đứa trẻ quấy khóc liền dỗ dành: “Con nín đi, đừng khóc! Lòng cha đã buồn khổ lắm rồi!”. Đứa bé ngây thơ hỏi: “Ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha trước kia chỉ nín thin thít”. Điều đó khiến Trương Sinh nghĩ rằng vợ mình ở nhà đã có người đàn ông khác. Vũ Nương trở về bị chồng nghi ngờ mắng nhiếc. Dù tủi thân nhưng vẫn hết lời giải thích. Biết là vô tác dụng, nàng liền tìm đến cái chết để chứng minh sự trong sạch của mình. Thật xót xa cho số phận của một người phụ nữ xinh đẹp mà bạc mệnh. Chỉ vì lời ngây thơ của con trẻ, sự đa nghi của chồng mà chỉ còn biết tìm đến cái chết để chứng minh tấm lòng trinh bạch.
Nhưng Vũ Nương không chết thật, nàng được đức Linh Phi cứu và sống ở thủy cung. Khi gặp lại Phan Lang – một người sống cùng làng tình cờ cũng được Linh Phi cứu thoát chết dưới thủy cung liền giãi bày nỗi oan khuất của mình. Nàng gửi nhờ Phan Lang “một chiếc hoa vàng mà dặn”: “Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa, nên lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây thần đăng chiếu xuống nước, tôi sẽ hiện về”. Lúc bấy giờ, Trương Sinh đã hiểu rõ mọi chuyện, bèn lập đàn giải oan cho nàng, Vũ Nương hiện về thăm lại hai cha con. Dường như kết thúc của câu chuyện mà tác giả xây dựng đã thể hiện được niềm cảm thông và mong muốn về một cuộc sống hạnh phúc cho người phụ nữ xưa.
Cuộc đời của Vũ Nương, vốn đã không được lựa chọn tình yêu, hôn nhân. Mà nàng phải chịu sự sắp đặt của cha mẹ theo quan niệm: “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” của tư tưởng Nho giáo. Cuộc hôn nhân của nàng và Trương Sinh cũng gặp nhiều bất hạnh. Chiến tranh đã chia cắt hai vợ chồng để rồi chính chiến tranh cũng góp phần cho sự hiểu lầm của Trương Sinh. Sự ghen tuông, đa nghi của chồng cũng khiến nàng phải tìm đến cái chết mới có thể rửa sạch nỗi oan khuất. Tất cả những nguyên nhân ấy đã khiến cho cuộc đời của nàng càng bất hạnh hơn. Trong một xã hội đầy bất công vốn “trọng nam khinh nữ”, nàng Vũ Nương chỉ còn biết cam chịu và nhẫn nhục, chẳng thể phản kháng lại cái xã hội bất công ấy. Để rồi cuối cùng phải lựa chọn cái chết chứng minh cho sự trong sạch của bản thân. Thông qua nhân vật Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã tố cáo xã hội phong kiến khắt khe, vô nhân đạo đã gây ra bao bất công cho người phụ nữ.
Như vậy, có thể thấy khi đọc “Chuyện người con gái Nam Xương”, mỗi độc giả đều sẽ cảm thông cho số phận của nàng Vũ Nương. Từ đó chúng ta thêm thấu hiểu, yêu thương hơn cho những người phụ nữ.
Người phụ nữ vốn là một đề tài quen thuộc trong văn học từ xưa đến này. Và “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ là một trong số những tác phẩm tiêu biểu viết về đề tài trên.
Hình ảnh nhân vật Vũ Nương đầu tiên khiến cho người đọc cảm thấy vô cùng ấn tượng: “Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương. Người đã thùy mị nết na, lại thêm có tư dung tốt đẹp”. Nàng đại diện cho những người phụ nữ trong xã hội xưa vừa xinh đẹp lại vừa có đầy đủ những phẩm chất tiêu biểu nhất: công, dung, ngôn, hạnh.
Nàng là một người vợ biết giữ gìn khuôn phép, không để cuộc sống gia đình mất hòa thuận. Đến khi chồng phải đi lính, nàng cùng không nửa lời oán trách mà còn ân cần, dịu dàng dặn dò: “Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi…”. Vũ Nương không mong muốn chồng trở về với vinh hoa phú quý hay công danh sự nghiệp, mà nàng chỉ mong muốn hai chữ “bình yên”. Một ước mong giản dị nhưng lại thể hiện được tình yêu thương sâu sắc dành cho chồng. Bởi bước ra nơi chiến trường là đối đầu với hiểm nguy, chết chóc. Nên hy vọng chồng có thể trở về bình yên chính là điều thiết thực nhất.
Năm tháng không có chồng ở nhà, dù phải một mình nuôi con, chăm sóc mẹ chồng nhưng Vũ Nương chẳng mảy may oán thán lấy một lời. Khi mẹ chồng ốm đau vì nhớ con, nàng vẫn hết lời khuyên bảo. Đến khi mẹ chồng mất, nàng “hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ; lo liệu như đối với cha mẹ sinh ra”. Đứa con thơ còn nhỏ, nàng thương con và mong muốn con có một gia đình đầy đủ. Vũ Nương đã nói dối con, chỉ vào chiếc bóng và bảo rằng đó là cha Đản. Chính vì một lời nói dối vô hại ấy, sau này lại đem đến lại bi kịch cho cuộc đời nàng.
Chiến tranh kết thúc, Trương Sinh đi lính trở về, gia đình đoàn tụ, tưởng rằng giờ đây cuộc sống sẽ được hạnh phúc, nhưng ai ngờ cuộc đời Vũ Nương lại trở nên bất hạnh. Nghe tin mẹ mất, hết sức đau lòng, liền bế con ra mộ thăm mẹ. Khi thấy đứa trẻ quấy khóc bèn dỗ dành: “Con nín đi, đừng khóc! Lòng cha đã buồn khổ lắm rồi!”. Đứa bé ngây thơ hỏi cha: “Ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha trước kia chỉ nín thin thít”. Chính vì điều đó mà Trương Sinh nghĩ rằng vợ chàng không chung thủy. Chi tiết “cái bóng” trở thành người cha để an ủi con trẻ, nhưng lại trở thành lý do dẫn đến bi kịch của Vũ Nương. Khi trở về, Trương Sinh liền mắng vợ một bữa cho hả giận. Dù Vũ Nương hết sức tủi thân nhưng nàng vẫn hết lời giải thích cho chồng hiểu. Họ hàng, làng xóm bênh vực cũng không ăn thua. Biết là vô tác dụng, nàng liền tìm đến cái chết để chứng minh sự trong sạch của mình. Đọc đến đây, chắc hẳn người đọc sẽ cảm thấy xót xa thay cho người phụ nữ mang danh là thất tiết, chẳng thể minh oan cho sự trong sạch của bản thân, bị chồng ruồng bỏ và phải tìm đến cái chết để hết tội. Và chúng ta chợt nhận ra rằng cuộc đời chung của người phụ nữ trong xã hội phong kiến – họ phải chịu sự ràng buộc của những lễ giáo phong kiến. Thân phận bất hạnh của họ phải phụ thuộc vào tay người đàn ông về thể xác lẫn tinh thần.
Tuy nhiên, Nguyễn Dữ đã thể hiện một cái nhìn lạc quan về tương lai. Sau khi Vũ Nương nhảy xuống sông, thì được chư tiên trong thủy cung thương mà cứu thoát, sống tại nơi thủy cung và gặp gỡ với Phan Lang – một người vốn sống cùng làng. Trước khi Phan Lang trở về, nàng gửi nhờ Phan Lang “một chiếc hoa vàng mà dặn”: “Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa, nên lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây thần đăng chiếu xuống nước, tôi sẽ hiện về”. Trương Sinh sau khi biết rõ sự tình, hiểu ra mình đã đổ oan cho vợ, nay lại nghe Phan Lang kể lại câu chuyện dưới thủy cung gặp được Vũ Nương được nàng nhờ vả, liền lập đàn giải oan. Vũ Nương hiện về trong làn khói mờ ảo, gia đình ba người được gặp nhau. Nhưng Vũ Nương lại không thể trở về sống cùng cha con Trương Sinh. Cũng bởi vì xã hội lúc bấy giờ vẫn còn những bất công, nếu Vũ Nương quay về liệu rằng nàng sẽ có được hạnh phúc.
Tóm lại, Vũ Nương – nhân vật chính trong “Chuyện người con gái Nam Xương” đã đem đến cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc. Để rồi khi gấp trang sách lại, mỗi người đều sẽ thêm yêu thương hơn những người phụ nữ xung quanh mình.
Vũ Nương là nhân vật tiêu biểu cho người phụ nữ đức hạnh ở xã hội phong kiến nhưng phải chịu số phận oan khuất. Câu chuyện vừa có ý nghĩa ca ngợi vẻ đẹp của lòng vị tha, đức hạnh vừa thể hiện ước mơ muôn thuở của con người, người tốt bao giờ cũng được đền trả xứng đáng dù chỉ là một thế giới huyền bí, ảo ảnh.
Vũ Nương là người phụ nữ có phẩm chất đức hạnh. Tác giả giới thiệu là người phụ nữ thùy mị, nết na lại thêm tư dung tốt đẹp. Và để làm nổi bật vẻ đẹp này nhà văn đã đặt nhân vật vào các hoàn cảnh tình huống cụ thể. Khi mới lấy chồng Vũ Nương cư xử đúng mực, nhường nhịn, giữ gìn khuôn phép lên chồng nàng có tính đa nghi đối với vợ, phòng ngừa quá mức nhưng gia đình vẫn chưa từng phải đến bất hòa.
Khi chồng đi lính Vũ Nương rót chén rượu đầy dặn dò chồng những lời tình nghĩa đằm thắm thiết, nàng không mong vinh hiển mà chỉ cầu mong chồng được trở về bình yên. Cảm thông với những vất vả gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng nơi trận mạc nói lên nỗi khắc khoải nhớ nhung của mình. Những lời nói ân tình của nàng khiến mọi người đều xúc động.
Khi Trương Sinh ở ngoài mặt trận Vũ Nương càng tỏ rõ mình là người vợ thủy chung yêu thương chồng hết mực. Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn – Cảnh vui mùa xuân hay mây che kín núi – Cảnh buồn mùa đông. Nàng lại chảy nỗi buồn thương, nhớ nhung da diết lại thổn thức tâm tình, tiết hạnh của nàng còn được khẳng định: Trong câu nói sau này của chồng cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngỡ liễu tường hoa chưa hề bén gót.
Khi chồng đi vắng nàng sinh con một mình, vừa nuôi con nhỏ vừa chăm lo săn sóc mẹ chồng khi già yếu ốm đau hết sức thuốc thang lễ bái thần phật, lấy lời ngọt ngào khuyên bảo. Phẩm hạnh của nàng được ghi nhận trong lời trăn trối của mẹ chồng. Đó là sự đánh khách quan. Khi mẹ chồng mất nàng hết lòng lo việc ma chay, tế lễ lo liệu như cha mẹ đẻ.
Khi chiến tranh kết thúc Trương Sinh trở về lẽ ra nàng được đón nhận một cuộc sống hạnh phúc. Tuy nhiên vì lời nói vô tình ngây thơ của con, một sự hiểu nhầm bởi tính đa nghi quá mức. Phải kết thúc cuộc đời mình khi quá trẻ.
Vì người chồng thất học lại hay ghen, độc đoán truyền quyền đã không bộc bạch lời nói của con cho mình biết lại còn không chịu nghe lời giãi bày phân trần, không chịu động lòng trước thái độ khổ đau của vợ. “Cách biệt 3 năm… cho thiếp”. Lời nói này của Vũ Nương không chỉ nhằm minh oan mà nàng còn cố gắng tìm mọi cách để hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ. Nhưng điều đó đâu có được Trương Sinh chấp nhận, khi họ hàng làng xóm bênh vực cho nàng nhưng Trương Sinh không tin. Như vậy, ngay cả quyền tự bảo vệ mình và được người khác làm chứng minh oan cũng không có, nàng đau đớn thất vọng mà than: “Thú vui nghi gia nghi thất… ngay cả ước nguyện cũng không được giãi bày”.
Mọi cố gắng của Vũ Nương đều không được chấp nhận. Tiết hạnh không được tỏ bày, thất vọng tột cùng nàng mượn dòng sông Hoàng Giang minh chứng tấm lòng trong sáng, rửa sạch tiếng nhơ oan ức. “Kẻ bạc mệnh này… khắp mọi người phỉ nhổ”. Lời than vừa là lời giãi bày vừa là lời thề nguyền cùng trời đất của kẻ bạc mệnh đầy đau khổ. Cái chết đau đớn của Vũ Nương cũng là sự đầu hàng của con người trước số phận. Nguyễn Dữ đã thốt lên:
Qua câu chuyện từ nhiều thế kỉ trước bằng năng lực sáng tạo của mình Nguyễn Dữ đã xây dựng nhân vật có chiều sâu hơn, các chi tiết kì ảo được mô tả vừa lung linh vừa hiện thực tạo lên vẻ đẹp riêng của tác phẩm. Vũ Nương là người phụ nữ thủy chung, đức hạnh vẹn toàn mà vô cùng bất hạnh. Tác phẩm là lời tố cáo hiện thực xã hội phong kiến đương thời nêu bật thân phận nỗi đau của người phụ nữ trong bi kịch gia đình.
Văn học dân tộc thế kỉ XVI có nhiều tác phẩm xuất sắc viết về thân phận đau thương của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Trong đó thành công là thiên truyện “Chuyện người con gái Nam Xương” trích truyện thứ 16 trong 20 thiên truyện của tác phẩm Truyện kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ. Cuộc đời và số phận đau thương của nhân vật Vũ Nương là điển hình cho số phận bi kịch của người phụ nữ đức hạnh, khao khát một cuộc sống bình yên nhưng lại gặp phải cảnh ngộ éo le, oan khuất, bất hạnh bởi sự ràng buộc của những lễ nghi khắc nghiệt.
Trên cơ sở nguồn gốc từ truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”, cộng thêm vào đó những hư cấu và sáng tạo các tình tiết truyền kỳ của chính tác giả, ngòi bút Nguyễn Dữ đã để lại cho đời một áng thiên cổ kì bút. bất hủ. Truyện kể về người con gái tên là Vũ Thị Thiết (thường gọi là Vũ Nương) quê ở Nam Xương. Vũ Nương vừa đẹp người lại đẹp nết, có chồng là Trương Sinh – gia cảnh khá giả nhưng có tính ghen tuông quá mức. Khi chồng đi lính, Vũ Nương ở nhà sinh hạ một đứa con trai. Nàng hết lòng nuôi dạy con thơ và phụ dưỡng mẹ chồng.
Chiến tranh kết thúc, Trương sinh trở về quê. Chỉ vì nóng vội tin lời con trẻ, Trương Sinh nghi vợ thất tiết nên đã hết lời la mắng, sỉ nhục và đuổi đi. Uất ức vì không thể phân minh, nàng tìm đến cái chết trầm mình nơi dòng Hoàng Giang. Sau khi nàng chết, Trương Sinh hiểu rõ sự tình. Chàng hối hận vô cùng nhưng đã quá muộn màng. Vũ Nương được Linh Phi cứu sống và cho ở nơi cung nước. tuy vẫn còn quyến luyến trần gian nhưng nàng quyết không trở về nữa. Lần trở về trên bến sông là để minh giải oan khuất và từ biệt mà thôi.
Vẫn là câu chuyện nói về số phận một người phụ nữ đẹp người, đẹp nết, bị oan khuất phải tìm lấy cái chết để minh chứng sự trong sạch của mình. Kết cấu ấy là kết cấu thường thấy trong truyện cổ tích. Nhưng với cái nhìn tiến bộ, Nguyễn Dữ đã thể hiện lòng trân trọng và cảm thương của mình đối với cuộc sống đau khổ và số phận bi thảm của người phụ nữ ở chế độ xưa. Đặc biệt là vũ nương – một người xuất thân từ giới bình dân “vốn con kẻ khó”
Tuy không khắc họa đậm nét cá tính nhân vật như các tác phẩm văn học khác, Nguyễn Dữ cũng đã xây dựng nhân vật Vũ Nương khá toàn vẹn. Trước hết Vũ Nương mang vẻ đẹp của một con người lí tưởng. Ở nàng là sự hài hòa, cân đối về cả ngoại hình lẫn tâm hồn. Nhà văn đã phác thảo vẽ đẹp hoàn hảo đó trong một câu văn: ” Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Vũ Nương hiện lên với vẻ đẹp dịu dàng, hiền hậu, dễ mến mà không kém tươi tắn, đáng quý đáng tôn trọng. Chưa thể gọi nàng là hồng nhan, tuyệt sắc nhưng có thể nói đó là một người con gái đẹp, khiến lòng người say mê.
Vũ Nương là một người con gái có lễ giáo, sống chừng mực, biết giữ gìn khuôn phép. Ở nàng là chuẩn mực của lối ứng xử đúng với nguyên tắc lễ giáo phong kiến: lịch thiệp, thanh nhã. khi làm vợ trương Sinh, biết tính chồng hay ghen, nàng hết sức giữ gìn khuôn phép, chưa từng để vợ chồng phải đến thất hòa. nàng biết cam chịu nỗi đau, sống vì người khác để giữ gìn đạo lí và hạnh phúc.
Vũ Nương còn là một người vợ thủy chung, một người mẹ đảm đang, một người con dâu hiếu thuận vẹn toàn. Đối với chồng, khi Trương Sinh ra trận, nàng tìm lời khuyên nhủ thắm tình, trọn nghĩa. Nàng chỉ mong chồng được bình an nơi trận mạc, khuyên chồng chớ ham danh lợi mà thiệt đến thân. Ở nhà, nàng giữ gìn tiết hạnh, khép kín cuộc sống đợi chồng trở về. Một mình vừa chăm con nhỏ, vừa lo cho mẹ già. Việc gì nàng cũng chu toàn.
Với con nhỏ, biết con lớn lên trong sự thiếu thốn tình cha, nàng luôn tìm cách bù đắp cho bé Đản bằng cách chơi đùa với con. Mỗi đêm vắng lặng, để giỗ con nín, nàng thường chỉ lên cái bóng của mình ở trên tường và bảo rằng đó là cha. Bé Đản ngây thơ tin thật nên không khóc nữa. Cùng một lúc Vũ Nương thay chồng cùng làm mẹ cùng làm cha bé Đản. Qua hành động ấy ta thấy rõ, Vũ Nương vừa che giấu nổi niềm thương nhớ chồng trong lòng vừa làm chỗ dựa vững vàng cho con, cho cả gia đình. Cái bóng ấy nàng gửi vào trong ấy tâm tư yêu nhớ khôn nguôi người chồng nơi chiến trường. Đồng thời xây dựng ước mong, khát vọng và niềm tin về người cha trong trong tâm trí con thơ.
Đối với mẹ già, Vũ Nương đã hoàn thành xuất sắc vai trò cả một người con dâu hiền hậu, hiếu thảo với mẹ chồng. Lúc mẹ chồng ốm nặng, nàng “hết sức thuốc than lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn” để mẹ vơi nỗi nhớ con mà khỏe hơn. Đến khi bà mất, nàng “vô cùng thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với mẹ cha đẻ của mình”.
Tấm lòng thơm thảo của Vũ Nương đã thêm tô đậm vẻ đẹp truyền thống toàn vẹn của nàng: dịu dàng, đằm thắm, giàu yêu thương, hi sinh…. Tấm lòng trung hậu ấy đã khiến cho mẹ chồng cảm động: “sau này trời xét lòng lành , ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ” …
Với tất cả phẩm hạnh cao quý ấy, nhưng tưởng người phụ nữ mẫu mực này rồi cũng sẽ có một cuộc sống tốt đẹp, yên bình. Nhưng nào ngờ, đối với nàng, đó chỉ là một giấc mơ một khát khao dường như vô vọng. Chiến tranh kết thúc. Trương sinh trở về. Nhưng cái giây phút đoàn viên cũng chính là giây phút đau khổ, thương tâm nhất trong cuộc đời nàng. Vì mù quáng tin lời nói ngây thơ của con trẻ, trương Sinh trở nên hồ đồ, ngu muội, trở nên bất nghĩa, vô tâm, đẩy Vũ Nương đến cái chết oan uổng.
Hóa ra cái bóng hôm nào trong trò chơi với con giờ đây trở thành nguyên nhân đẩy nàng đến đường tận tuyệt. Từ cái bóng mờ trên tường trở thành bóng tối trong lòng Trương Sinh. Phía sau cái bóng ấy là định kiến, là lễ giáo phong kiến vốn hà khắc đã chà đạp lên cuộc đời và số phận của người phụ nữ, đẩy họ vào bước đường cùng nghiệt ngã không lối thoát.
Nguyễn Dữ như muốn minh oan và bù đắp cho đức tính tốt đẹp của nàng bằng một cuộc sống khác với chốn dương gian. Nàng được sống trong “cung cấm đền giao thật nguy nga lộng lẫy” cùng với Linh Phi và tiên nữ. Song cuộc sống của nàng vẫn luôn mang ám ảnh, đau khổ, dằn vặt. Tuy nói dứt nợ phàm trần nhưng nỗi lòng vẫn canh cánh quê xưa. Duyên trần đã dứt nhưng oan tình chưa giải được đã khiến Vũ Nương nơi cung nước vẫn ngày đêm thổn thức. nhờ có Phan Lang giúp đỡ, nàng được trở về tự minh oan cho mình. Chi tiết ấy thể hiện tấm lòng nhân đạo cao cả của Nguyễn Dữ. Dù đất trời đã chứng giám nhưng lòng người chưa rõ. Vũ Nương trở về là để lấy lại giá trị của mình và phủi sạch lớp bụi nhơ bẩn của trần gian.
Nhân vật Vũ Nương chính là hiện thân của lòng vị tha và vẽ đẹp của người phụ nữ trong chế độ cũ. Nhưng cũng như họ, Nàng không thể quyết định cuộc đời mình. Ngay từ chi tiết Trương Sinh dùng trăm lạng vàng cưới nàng về, chuyện hôn nhân cũng không do nàng định đoạt. Không thể tự quyết mình sống như thế nào nhưng Vũ Nương có thể tự quyết mình chất như làm sao. Đó là lần đầu tiên, người phụ nữ tự mình làm theo ý mình. Sau cái chết, lần thứ hai nàng tự mình quyết định không trở về trần gian nữa. Chi tiết tưởng chừng như hiển nhiên ấy lại là là một sự bức phá của người phụ nữ trước sự kìm kẹp của lễ giáo phong kiến. Đồng thời đó là tiếng nói căm phẫn của nhà văn đối với xã hội đầy bất công, ngang trái.
Ta cũng chợt nhận ra, chế độ phong kiến đã gây ra nhiều bất hạnh cho không ít phụ nữ. Nếu ta đã từng đau cho nỗi đau của Thúy Kiều, một người con gái sắc tài bạc mệnh thì giờ đây ta làm sao có thể dửng dưng trước những gì Vũ Nương đã trải qua. Nếu ta đã một lần khóc than cho nỗi oan khiên của Thị Kính, khóc cho sự chờ đợi mòn mỏi của người thiếu phụ chờ chồng thì đến với Chuyện người con gái Nam Xương làm sao ta có thể xót xa, không ray rứt trước oan tình nghiệt ngã của Vũ Nương.
Tác phẩm lời tố cáo mạnh mẽ cái chế độ hà khắc của xã hội phong kiến, chế độ trọng nam khinh nữ, những định kiến cổ hủ, lạc hậu… đã đày đọa những người con gái nhỏ bé vào hoàn cảnh bất hạnh, thương tâm.
Gấp lại trang sách, cuộc đời và số phận đau thương của nhân vật Vũ Nương làm ta đọng lại những cảm xúc, vấn vương. Cuộc đời và khát vọng hạnh phúc của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến cùng với những vẻ đẹp tâm hồn nhân phẩm đáng quý của họ đều được ngòi bút tài tình của Nguyễn Dữ thể hiện thành công đến nhói lòng. Đó cũng là một lời tố cáo quyết liệt, một lời tố cáo giá trị vô cùng lớn lao trong xã hội lúc bấy giờ.
Thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa luôn bị đặt dưới quyền của người nam giới, dưới những lề thói của xã hội. Người phụ nữ dù có xinh đẹp, giỏi giang thì vẫn chỉ là phận nữ nhi “tòng phu”, không có tiếng nói. Trong các tác phẩm trung đại Việt Nam, không ít các nhà văn nhà thơ đã dùng lời văn lời thơ của mình để nói lên cái số phận đắng cay ấy của người phụ nữ, làm họ trở thành những hình mẫu điển hình của người phụ nữ truyền thống Việt. Trong số đó, nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ là một trong những người phụ nữ có số phận thật bi kịch trong cuộc đời.
Câu chuyện “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ viết về Vũ Nương. Nàng là một người con gái xinh đẹp, nết na, tuy con kẻ khó nhưng được gả cho nhà khá giả, chồng là Trương Sinh. Nàng vốn tính đẹp người đẹp nết, chồng đi lính xa nhà vẫn một lòng thủy chung, chăm sóc mẹ già con thơ chu toàn. Vậy mà, chồng nàng vì một lời nói vô tình của con trẻ mà nghi cho nàng tội danh thất tiết, dù có biện bạch như thế nào, chồng nàng cũng không tin. Để đến cuối cùng, nàng buộc lòng phải lấy cái chết để chứng minh lòng trong sạch của mình. Nhưng may thay, nàng được đức Linh Phi chốn thủy cung cứu vớt. Sau này, khi người chồng đã hiểu rõ nỗi oan của nàng, nàng đã nhờ chàng lập đàn giải oan trên bến sông. Nàng trở về trong hoa đèn, võng lọng, nói lời từ biệt chồng rồi biến mất. Câu chuyện mang đầy sự li kì, ảo diệu, huyền bí nhưng cũng đầy tính nhân văn, chân thật của cuộc đời.
Qua câu chuyện, ta có thể nhận ra, Vũ Nương là một người phụ nữ điển hình trong xã hội xưa của Việt Nam, rất truyền thống, mang đầy những đức tính tốt đẹp. Nàng không chỉ xinh đẹp, nết na, lại đức hạnh, hiếu thảo hơn người, thế nhưng, nàng lại phải chịu những nỗi đau, oan khuất khó lòng gột rửa, mà tất cả đều là do chồng nàng và lề thói xã hội ban tặng. Vậy mà cuối cùng, nàng bỏ qua tất cả, tha thứ cho hết thảy những đau khổ đã đẩy nàng tới đường cùng.
Khi đọc tác phẩm, điều đầu tiên ta có thể cảm nhận được là Vũ Nương là một người phụ nữ truyền thống của Việt Nam với những phẩm chất thật tốt đẹp. Chỉ bằng vài dòng giới thiệu đơn giản của Nguyễn Dữ, nhưng ông cũng đã khái quát được hết những nét đẹp, tính cách, phẩm hạnh của một người con gái hết mực xinh đẹp ấy. Ông giới thiệu nàng là một người “tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Chỉ ngần ấy từ thôi, chúng ta đã có thể hình dung ra một người con gái xinh đẹp, với sự dịu dàng, duyên dáng, cùng với tính cách hiền hòa, hết lòng vì chồng vì con. Nàng là người con gái “tuy con kẻ khó” nhưng lại luôn có cách cư xử đúng chừng mực, lễ phép, gia giáo như những tiểu thư khuê các con nhà giàu. Nàng được mọi người yêu mến vì tính cách hiền hòa, chân thành ấy. Đó là những lời kể trước khi nàng lấy chồng, vậy đặt thử nàng vào tình huống cụ thể, khi nàng đã về nhà chồng thì sao?
Khi đã đi lấy chồng, nàng là người luôn luôn gìn giữ ngọn lửa hạnh phúc của gia đình, luôn giữ trọn đạo làm vợ, trọn đạo hiếu làm con. Tuy chồng nàng là một kẻ “có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức”, nhưng nàng vẫn “luôn giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”. Vũ Nương vẫn là một người con gái như thế, không bao giờ to tiếng, cãi vã với chồng, với mẹ chồng, nàng luôn coi những lời chồng nói, mẹ chồng nói là những lời quan trọng nhất. Nàng đã luôn chu toàn như thế từ khi còn là một người con gái, đến khi làm vợ, làm mẹ, nàng cũng luôn giữ gìn phẩm hạnh, đoan trang, khuôn phép từ trong ra ngoài.
Đến khi chồng đi lính, nàng đã mang thai, nhưng ngày tiễn chồng đi, nàng vẫn ân cần, dịu dàng dặn dò chồng mình với những lời nói đầy tình cảm. Nàng nói: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên là đủ rồi”. Từng lời nàng nói ra đầy ân cần, nhẫn nại, dịu dàng, thắm thiết. Người vợ nào chẳng muốn trở thành một vị phu nhân, chồng được mang ấn phong hầu, trở thành người công danh, nhưng với Vũ Nương, nàng chẳng cần những hư vinh ấy, với nàng, “hai chữ bình yên trở về” mới là quan trọng nhất. Nàng phải yêu chồng, mong ngóng chồng như thế nào mới có thể thốt ra những lời nói tràn đầy ân cần, yêu thương đến như thế?
Đến khi chồng xa nhà, nàng trở thành người lo toan mọi công việc trong gia đình, gánh vác một gia đình to lớn trên đôi vai nhỏ của mình. Chồng nàng ra đi, “xa chồng gần đầy tuần” thì nàng sinh ra một đứa con trai. Nàng một lúc phải gánh trên vai cả mẹ già và con thơ, vậy mà nàng chẳng hề một lời than vãn, vẫn nhất mực lo toan cho gia đình, chăm sóc người mẹ già đang thương nhớ con trai. Mẹ chồng nàng, “vì nhớ con mà sinh ốm”, nàng lại hết lòng chăm sóc, nào là “thuốc thang”, nào là “lễ bái Thần Phật”, rồi lại “lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Nàng cứ hết mực chăm lo cho người mẹ chồng ốm yếu như thế, lo cho đứa con trai nhỏ thiếu tình thương của cha mà bày trò “chỉ vào vách tường mà bảo rằng đó là cha Đản”. Thế nhưng, đứa con càng lớn thì “bệnh tình ngày một trầm trọng”, bà đã chẳng đợi được con trai trở về đã vội vã quy tiên. Vũ Nương lại một tay lo liệu việc hậu sự cho bà, “nàng hết lời thương xót, phàm là việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với mẹ cha đẻ của mình”. Một người con dâu hiếu thảo như thế phải chăng nên được đền đáp xứng đáng với lòng thành như lời người mẹ già đã trăn trối trước khi chết “trời xanh lòng lành,… xanh kia quyết chẳng phụ con như con đã chẳng phụ mẹ”?
Mẹ chết, nàng một mình sống với con thơ, vì nhớ thương chồng, thương con, lo con thiếu vắng tình thương của cha mà nàng đã tự chỉ vào cái bóng của mình trên vách tường mà gọi đó là cha Đản – con trai của mình. Đứa trẻ ngây thơ tưởng đó là sự thật mà đâu biết rằng đó chỉ là sự tưởng tượng trong nỗi nhớ thương chồng, thương con của người mẹ trẻ thủy chung? Nó cũng đâu thể hiểu rằng cái bóng chỉ là của mẹ nó và đó là căn nguyên tất cả những bất hạnh sau này của mẹ nó.
Sau ba năm đi lính, Trương Sinh trở về, chưa kịp hưởng niềm vui sum họp hạnh phúc, bi kịch xót xa đã ập đến cuộc đời nàng, mà người gây nên bi kịch ấy không ai khác mà chính là người chồng mà nàng vẫn ngày ngóng đêm mong. Sóng gió lại ập đến thật bất ngờ mà nàng chẳng thể nào hay biết trước được. Mẹ mất, Trương Sinh đau lòng khôn xiết, bế đứa con thơ ra mộ mẹ thắp nén hương thơm. Đứa trẻ quấy khóc, Trương Sinh dỗ dành:”Nín đi con, cha về mà bà đã mất …”. Đứa trẻ ngạc nhiên khi có người nhận làm cha mình, nó bảo cha nó tối nào cũng tới. Chỉ vì câu nói vu vơ đó của đứa trẻ, Trương Sinh đã nghi ngờ sự trong sạch của vợ mình. Vũ Nương nghe thấy, nàng hết lời biện bạch, nhưng Sinh không cho vợ giải thích, chỉ nhất nhất”đánh đuổi nàng đi”. Quá đau xót trước sóng gió bất ngờ ập tới cướp đi bao hạnh phúc của mình, Vũ Nương đã chọn cái chết bên bờ sông bến Hoàng Giang để rửa sạch nỗi oan khuất. Bởi nàng chẳng còn cầu cạnh được ai giải được nỗi oan cho mình, chỉ có cái chết mới chứng minh được lòng trong của nàng mà thôi “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu ….và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”.
Nàng nhảy xuống sông để mong được trời Phật chứng giám cho tấm lòng trong trắng của mình, may thay được đức Linh Phi chốn thủy cung cứu vớt. Đến ngày được lập đàn giải oan để trở về dương thế, những tưởng nàng sẽ chỉ trích, trừng phạt kẻ đã gây ra nỗi oan khuất cao tựa núi của mình nhưng không, nàng vẫn như trước, vẫn là người con gái dịu dàng, nhất mực nết na như thế. Nàng đã chọn cách tha thứ cho chồng – cho kẻ đã gây ra nỗi đau khốn cùng của mình, không những vậy, nàng còn cảm tạ tình nghĩa của Trương Sinh đối với mình:”Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Nàng quả là một người phụ nữ giàu lòng vị tha.
Vũ Nương – nàng là điển hình của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến, một người phụ nữ truyền thống với dung nhan, phẩm hạnh đều khiến người ta yêu mến. Nàng xinh đẹp, dịu hiền, nết na lại công dung ngôn hạnh, yêu chồng thương con và giàu lòng vị tha như hàng triệu người phụ nữ Việt Nam xưa và nay.
Thế nhưng, xinh đẹp, phẩm hạnh là thế, nhưng cuộc sống của nàng lại suôn sẻ, nàng đã phải chịu nỗi bất hạnh thật to lớn, nỗi đau oan khuất tày trời và chẳng thể hưởng hạnh phúc trọn vẹn của một người phụ nữ.
Vũ Nương vốn “tính thùy mị, nết na, lại thêm tư dưng tốt đẹp”, đáng lẽ ra với dung mạo và phẩm hạnh của mình, nàng đáng được hưởng một cuộc sống hôn nhân hạnh phúc cùng người phu quân giỏi giang mà nàng yêu mến. Thế nhưng, lề thói xã hội với tư tưởng “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”, chỉ với “hơn trăm lạng vàng”, nàng đã phải chịu làm vợ một kẻ “tuy con nhà hào phú, nhưng vô học” – Trương Sinh. Không chỉ là một kẻ vô học, Trương Sinh lại còn là một kẻ “có tính đa nghi quá mức, đối với vợ phòng ngừa quá sức”. Chính điều này là nguyên nhân to lớn nhất dẫn tới bi kịch cuộc đời của Vũ Nương, khiến nàng phải chịu đựng bất hạnh và đau khổ với nỗi oan khuất tày trời. Một người vợ nết na, phẩm hạnh như thế mà lại phải chịu lấy một kẻ vô học, đa nghi như thế, nàng quả thật phải chịu quá nhiều thiệt thòi. Người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa phải chịu bao sự bất công, tình yêu, hôn nhân, sự lựa chọn người bạn đời, hạnh phúc cả đời cũng không thể tự mình lựa chọn.
Không chỉ phải chịu sự bất công gả cho một kẻ mình chẳng hề yêu thương, Vũ Nương còn phải gánh chịu sự cô đơn, côi cút bởi “cuộc sum họp chưa được bao lâu thì xảy ra việc triều đình bắt lính đi đánh giặc Chiêm”. Có lẽ, chính cuộc chiến tranh phi nghĩa ấy cũng là nguyên cớ cướp đi hạnh phúc mà Vũ Nương một đời theo đuổi. Xã hội phong kiến ấy không chỉ không cho Vũ Nương có cơ hội chọn lựa hạnh phúc của mình mà nó còn cướp đi những niềm vui, hạnh phúc của nàng nữa. Nó khiến nàng vò võ chờ chồng ba năm ròng rã trong nỗi nhớ thương, một mình nuôi con thơ khôn lớn, là lý do khiến nàng phải chịu oan khiên một đời. Giống như người chinh phụ trong khúc “Chinh phụ ngâm” cũng đã mòn mỏi chờ chồng về từ chiến trận như thế:
Nhưng có lẽ bi kịch lớn nhất của đời nàng bắt nguồn từ việc nhỏ nhoi nhất, chỉ vì câu nói vô tình của con trẻ mà chồng nàng đã nhất mực nghi ngờ nàng thất tiết. Thủy chung với chồng, mòn mỏi chờ chồng ba năm, trong những giây phút cô đơn ấy, nàng luôn tự lấy cái bóng của mình trên vách tường để đùa vui với đứa con rằng:”Đó là cha của Đản”. Nào ai ngờ rằng, chỉ một lời đùa vui vậy mà đã khiến nàng phải chịu tội thất tiết với chồng. Bởi sở dĩ chồng nàng vốn là một kẻ đa nghi, ghen tuông mù quáng, cho dù nàng có biện bạch, thanh minh, dù là hàng xóm nói giúp, cũng đều bị chồng nàng gạt đi. Trương Sinh nhất mực nghi ngờ vợ mình, ghen tuông một cách mù quáng, hắn “lấy lời nói bóng gió này nọ mà mắng nhiếc nàng, rồi đánh đuổi đi”. Có lẽ, bất hạnh lớn nhất trong đời Vũ Nương là lấy phải một người chồng như thế. Một người chồng không có một chút tin tưởng vợ mình, luôn nghi ngờ, ghen tuông quá mức. Chính điều đó đã đẩy Vũ Nương tới bước đường cùng của cuộc đời. Người phụ nữ đức hạnh ấy đáng ra phải được hưởng hạnh phúc trọn vẹn mới phải, vậy mà nàng phải chịu nỗi bất hạnh quá mức, nỗi oan ức tày trời đến vậy!
Đến mức này, Vũ Nương đã quá đau khổ, cuộc sống của nàng vốn dựa vào chồng, lấy niềm vui của chồng làm niềm vui của bản thân, vậy mà giờ đây, người quan trọng nhất của cuộc đời nàng lại từng bước đẩy nàng tới đường cùng. Vũ Nương đã biện bạch rằng: “Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa chưa thỏa tình chăn gối …mất nết hư thân như lời chàng nói”. Mỗi lời nàng nói ra đều là những lời chân thật, dù đang bị chồng nghi ngờ, nàng vẫn nhẹ nhàng, ân cần giải thích, vậy mà người chồng “đầu gối tay ấp” với nàng lại chẳng tin nàng lấy một lời. Thật đau khổ biết bao. Chính vì vậy, nàng đã quyết định lấy cái chết để tỏ bày cho sự trong sạch của mình “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu …và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”.
Cuối cùng, ta có thể tóm lại rằng, Vũ Nương – người con gái truyền thống của xã hội Việt Nam là một người phụ nữ không chỉ đẹp người đẹp nết mà còn vô cùng phẩm hạnh, tư dung cao quý thế nhưng, cuộc đời của nàng lại phải chịu bao nỗi đau khổ tột cùng. Nàng không được hưởng cuộc sống hạnh phúc, không có quyền lựa chọn tình yêu, hi sinh vì chồng mà nhận lại là sự ghen tuông tới mù quáng, sự nghi ngờ thất tiết của chồng dành cho mình. Có thể nói, đó là nỗi đau, nỗi oan khiên không gì sánh bằng, và đó cũng là nguyên nhân đẩy nàng tới bức đường cùng – tự vẫn ở bến Hoàng Giang.
Vũ Nương là đại diện cho lớp phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến. Tuy sinh ra trong nghèo khó lại được gả vào chốn giàu sang, nhưng nàng vẫn luôn hiền dịu, nết na, hi sinh hết mực vì chồng con, gia đình. Nguyễn Dữ đã xây dựng lên Vũ Nương bằng cả yếu tố tự sự và kì ảo nhằm mang đến cho người đọc những cái nhìn toàn diện nhất về số phận những người phụ nữ Việt. Đồng thời, ông cũng muốn qua nhân vật Vũ Nương mà lên án cái xã hội xưa bất công, với những lề thói cổ hủ, những kẻ hào phú vô học đã góp phần đẩy những người phụ nữ xinh đẹp, phẩm hạnh vào bước đường cùng, với những nỗi đau khổ, oan khuất, bi kịch một đời.
Văn học trung đại là những tiếng kêu thống thiết cho thân phận phụ nữ trong xã hội đương thời. Đó là Hồ Xuân Hương với tác phẩm “Bánh trôi nước”, Nguyễn Du với “Truyện Kiều” và còn cả Nguyễn Dữ với “Chuyện người con gái Nam Xương.” Xây dựng nhân vật trong “Chuyện người con gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ không chỉ bày tỏ sự xót xa, niềm thương cảm trước thân phận nổi trôi của người phụ nữ mà ẩn sâu trong đó còn là sự ngợi ca, tôn vinh những nét đẹp thuần túy, cao cả về phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam được khắc họa tiêu biểu qua nhân vật Vũ Nương.
Nguyễn Dữ là một con người đa cảm, học rộng tài cao nhưng chọn lối sống ẩn dật, cũng vì thế mà cảm quan nhìn đời của ông đầy tinh tế và sâu sắc. Chọn hình ảnh Vũ Nương, từng lớp phẩm hạnh của người phụ nữ Việt dưới thời phong kiến được lột tả. Trước hết, Vũ Nương được phác họa bởi vẻ đẹp phẩm hạnh của một người phụ nữ truyền thống trong văn hóa Việt. “Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương. Người đã thùy mị nết na, lại thêm có tư dung tốt đẹp”. Ở Vũ Nương hội tụ những nét cơ bản của người phụ nữ truyền thống thông qua các tính từ “thùy mị, nết na, tư dung tốt đẹp.” Cũng bởi có những vẻ đẹp chuẩn mực ấy, Trương Sinh vì mến “dung hạnh” nên mới xin mẹ “trăm lạng vàng” để cưới nàng về.Thế nhưng ngay từ những chi tiết đầu tiên, Nguyễn Dữ đã lờ mờ vẽ ra bi kịch của Vũ Nương, người phụ nữ trong cuộc hôn nhân không môn đăng hộ đối. Trương Sinh đã dùng tiền để có thể hỏi cưới nàng về. Tuy vậy, cuộc sống của Vũ Nương và Trương Sinh luôn có sự hòa hảo bởi đức hạnh nết na, khéo léo của nàng. “Trương Sinh có tính hay ghen, đối với vợ phòng ngừa thái quá” nhưng Vũ Nương luôn xử xự đúng mực, tinh tế “giữ gìn khuôn phép” để vợ chồng không phải xảy đến thất hòa. Cũng bởi người phụ nữ trong gia đình thời phong kiến luôn là chuẩn mực ứng xử, phải đức độ và biết tiến lùi để giữ hòa khí trong gia đình.
Đấy là trong cuộc sống thường ngày. Khi cuộc vui chẳng tày gang thì Trương Sinh phải đi lính, lúc tiễn chồng, Vũ Nương lại xuất hiện với nét đẹp của một tấm lòng chung thủy, yêu thương chồng và xót xa cho tình cảnh của chồng mình. Vũ Nương có nói rằng “Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi.” Thời phong kiến, đâu có ai không mong áo gấm vinh quy bái tổ, được hưởng tiếng thơm, cuộc sống giàu sang… thế nhưng trong lòng Vũ Nương, những thứ đó chỉ là phù du, vật ngoài thân không quan trọng bằng sự bình an của chồng mình. Nàng cảm thông cho sự khó khăn tiếp đến mà chồng mình phải chịu đựng, xót xa tình cảnh vợ lìa chồng, thương cảm nỗi niềm mẹ xa con.
Rồi tới những năm tháng chia xa, Vũ Nương còn là người vợ chung thủy hết mực. Nỗi nhớ thương chồng nơi biên ải xa xôi trở thành nỗi trăn trở vò võ không nguôi “mỗi khi bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn nơi góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Câu văn nhẹ nhàng tuần tự, như kéo dài nỗi nhớ mòn mỏi của người vợ nơi quê nhà với chồng chốn phương xa. Lòng chung thủy của Vũ Nương ngôn từ nào mà hết cho được. Hơn cả, Vũ Nương cũng là một người con dâu hết sức hiếu thuận và thảo hiền. Khi mẹ chồng “vì nhớ con mà dần sinh ốm. Nàng hết sức thuốc thang, lễ Phật cầu thần, cúng ma gọi vía và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn.” Nàng hiểu nỗi đau xa cách của người mẹ, nên lấy tấm lòng đối đãi, cư xử dịu dàng. Và lời nói của người mẹ chồng trước khi lâm chung đã phần nào ghi nhận công lao của người con dâu hiếu thảo “Sau này trời giúp người lành, ban cho phúc trạch, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, mong ông xanh kia chẳng phụ con cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ.” Thời xưa, mẹ chồng nàng dâu vốn không phải lúc nào cũng bằng mặt bằng lòng, nhưng tấm lòng hiếu thảo cảm động trời xanh của Vũ Nương đã khiến cho mẹ chồng không có điểm nào trách cứ mà còn vô cùng yêu mến, trân trọng. Và đến cả khi mẹ chồng mình đã nhắm mắt xuôi tay “Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ sinh ra.” Tất cả những chi tiết tiêu biểu mà Nguyễn Dữ thể hiện đã phác họa chân thực hình ảnh người một người vợ chung thủy, kính trọng chồng, giữ được nề nếp gia phong, cư xử đúng mực và cả một người con hiếu thảo, làm tròn được đạo hiếu thay chồng.
Không chỉ vậy, Vũ Nương còn được biết tới như một người mẹ yêu thương con hết mực. Trong nhà thiếu vắng bóng dáng người cha, việc lớn bé gì đều đến tay và Vũ Nương đã đóng cả vai người cha lẫn người mẹ. Nàng cố gắng bù đắp phần nào thiếu thốn tình cảm của con mình khi vắng đi người cha, dùng cái bóng của chính mình tạo nên người cha câm xoa dịu tâm hồn của một đứa trẻ. Nghĩ cho con, thương con như vậy nhưng chính việc tốt đó mà nàng làm lại gây nên chính oan nghiệt của nàng. Nhưng nàng cũng mang trong mình một sự dũng cảm, gan dạ để chứng minh cho sự trong sạch của mình khi bị chồng nghi oan. Vũ Nương tắm gội chay sạch, ngửa lên trời mà than rằng “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mỹ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, chẳng những là chịu khắp mọi người phỉ nhổ.” Tiếng than đó thống thiết, như lời biện bạch duy nhất cho lương tâm của nàng, khẳng định cho lý trí cao hơn tình cảm. Trời không phụ lòng người, sự trong sạch của nàng vì thấu tận trời xanh nên nàng đã được Linh Phi cứu mạng.
Dù dưới thủy cung được mọi người đối xử tốt đến đâu, Vũ Nương chưa từng nguôi ngoai nỗi nhớ con, nhớ chồng, nhớ quê hương làng nước với mái nhà đầm ấm, trong nàng lúc nào cũng dấy lên một nỗi xót xa không kể xiết, hơn cả là nỗi hàm oan chưa được thấu tỏ. Thế rồi khi Trương Sinh lập đàn giải oan, Vũ Nương đã hiện về trong một không khí huyền ảo và lộng lẫy, nàng quay lại gặp mặt người nàng vẫn thương yêu không hề oán trách. Mối tình nặng với nhân gian chưa nguôi, nhưng Vũ Nương vẫn nói với Trương Sinh “Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể lại về nhân gian được nữa.”. Câu nói chia biệt làm cho người đọc thấy xót xa , Vũ Nương đã được giải oan nhưng cuộc sống khi xưa không có cách nào trọn vẹn nữa. Chồng mất vợ, con mất mẹ bơ vơ côi cút. Đó là niềm thương cảm của tác giả đối với Vũ Nương nói riêng và người phụ nữ đương thời nói chung. Nhưng câu nói ấy cũng là sự khẳng định cho tấm lòng ân nghĩa, thủy chung, biết phải trái đúng sai của Vũ Nương. Nàng nợ ơn cứu mạng của đức Linh Phi nên không trở về nhân gian nữa. Có thể nói xây dựng nhân vật Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã khắc họa hình tượng người phụ nữ vừa nặng tình cũng vừa nặng nghĩa.
Khép lại tác phẩm, chúng ta không khỏi day dứt và xót xa cho số mệnh của Vũ Nương, một người phụ nữ hiền lành nết na, trọn đạo vẹn tình nhưng cuộc đời lại phải chịu quá nhiều cay đắng. Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” mà Nguyễn Dữ đã hoàn thiện là biểu tượng hoàn hảo cho người phụ nữ Việt nam xã hội đương thời, dịu dàng, nhẫn nhịn, nặng tình, chung thủy, thương con và giàu đức hy sinh. Vũ Nương như minh chứng cho hà khắc của lễ giáo đã đày đọa con người đến chốn khổ đau, chiến tranh loạn ly khiến gia đình xa cách và tan vỡ.
Tác giả Nguyễn Dữ sống ở thế kỷ XVI và là học trò ưu tú của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Dễ nhận thấy được các tác phẩm của ông đã đóng góp rất lớn cho nền văn học trung đại Việt Nam và trong đó nổi tiếng nhất chính là tác phẩm “Truyền kỳ Mạn Lục” trong đó tiêu biểu nhất là chuyện thứ 16 “Chuyện người con gái Nam Xương”. Trong tác phẩm này cũng đã thể hiện được niềm thương cảm sâu sắc của Nguyễn Dữ đối với nhân vật Vũ Nương – một người con gái đẹp người, đẹp nết thế nhưng phải chịu những sự bất công trong xã hội cũ. Và đây cũng là nhân vật đem lại cho chúng ta nhiều cảm nghĩ nhất.
Đầu tiên người ta nhận thấy ngay được nhân vật Vũ Nương chính là một người phụ nữ mang rất nhiều phẩm chất tốt đẹp. Nàng xuất thân từ một gia đình nghèo thế nhưng lại có nhan sắc và lại còn có đức hạnh, ai ai cũng mến yêu. Không thể phủ nhận được vẻ đẹp của Vũ Nương cũng mang vẻ đẹp của một người phụ nữ xưa. Chính vì vẻ đẹp cũng như đức hạnh của nàng khiến cho Trương Sinh say mê và xin mẹ 100 lạng vàng đi hỏi cưới Vũ Nương. Xuất phát từ một cuộc hôn nhân không bình đẳng, đã vậy Trương Sinh lại có tính đa nghi, hay ghen tuông. Thế nhưng với Vũ Nương vẫn luôn giữ phép tắc trong đạo vợ chồng, nàng luôn là một người phụ nữ vô cùng thông minh, đôn hậu và biết giữ gìn khuôn phép không bao giờ để gia đình bị thất hòa. Tất cả những điều này cho thấy Vũ Nương là một người khéo léo và nết na.
Khi nàng phải sống trong thời loạn lạc nên cuộc sum vầy chưa được bao lâu thì Trương Sinh tòng quân đi lính nơi biên ải xa xôi. Trong một buổi tiễn chồng ra trận nàng rót chén rượu đầy chúc chồng bình yên thế nhưng đối với Vũ Nương lúc nào nàng cũng chỉ mong chồng có thể bình an trở về không mong gì hơn.
Nguyễn Dữ cũng thật tài tình khi nàng không chỉ là một người vợ chung thủy, Vũ Nương cũng còn được xây dựng lên chính là một người mẹ hiền, người con dâu hiếu thảo. Khi chồng ra trận vừa tròn tuần thì nàng sinh con nuôi dạy con khôn lớn một mình. Và để có thể mong bù đắp thiếu vắng cha của con nàng chỉ chiếc bóng của mình trên tường và nói là cha Đản mà thôi. Rồi còn với mẹ chồng già yếu nàng chăm sóc mẹ rất chu đáo, thuốc thang cẩn thận phụng dưỡng như cha mẹ đẻ của mình. Vũ Nương cũng đã làm chọn chữ công với nhà chồng. Thực sự có thể nhận thấy được đây là điều rất đáng trân trọng của Vũ Nương. Lý do chính bởi thời xưa quan hệ mẹ chồng nàng dâu dường như chưa bao giờ êm đẹp và chứa đầy những định kiến khắt khe đến vậy.
Advertisement
Thực sự có thể nhận thấy được chính tấm lòng của nàng đã được người mẹ chồng ghi nhận, điều này thể hiện qua những lời trăn trối của bà trước khi qua đời với Vũ Nương. Đó chính là câu nói “Sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức giống dòng tối tươi, xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Thông qua đây chúng ta nhận thấy được nhân vật Vũ Nương chính là người phụ nữ lý tưởng trong xã hội ngày xưa: Công, dung, ngôn, hạnh thật đáng học hỏi.
Xây dựng lên nhân vật Vũ Nương còn là người phụ nữ có bao phẩm chất tốt đẹp đáng lẽ nàng phải được hưởng cuộc sống hạnh phúc chí ít cũng như nàng mong ước đó chính là một thú vui nghi gia, nghi thất – vợ chồng con cái sum họp bên nhau. Nhưng dù có cố gắng như thế nào đi chăng nữa thì cuộc đời của Vũ Nương cũng giống như cuộc đời của những người phụ nữ trong xã hội xưa. Đó là một cuộc đời buồn và đầy những giọt nước mắt. Rồi sự bất hạnh của nàng ập đến khi người chồng trở về, cứ mong cảnh đoàn tụ vui vẻ sẽ đến với nàng nhưng không. Trương Sinh vốn ít học lại có thói ghen tuông khi nghe chuyện về cái bóng thôi là đã vội vàng kết tội cho Vũ Nương. Cho dù nàng có hết lời phân trần để bày tỏ lòng thủy chung, cố gắng hàn gắn hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ những tất cả đều vô ích mà thôi.
Chính Trương Sinh đã đối xử với nàng hết sức tàn nhẫn, Trương Sinh đã mắng nhiếc, đánh đuổi nàng đi và bỏ ngoài tai những lời phân trần của vợ và những lời khuyên can của hàng xóm. Khi đã thất vọng đến tột cùng Vũ Nương đành mượn dòng nước quê hương để giãi tỏ nỗi lòng trong trắng của mình. Khi đó Vũ Nương đã tắm gội chay sạch ra bến sông Hoàng Giang ngửa cổ lên trời là than rằng kẻ bạc mệnh này duyên hẩm hiu và nàng nhảy xuống sông để rồi tự vẫn.
Thông qua đây thì Nguyễn Dữ cũng đã thể hiện được chân lý “thà chết trong còn hơn sống đục” với tấm lòng yêu thương con người tác giả như không để cho sự trong sáng cao đẹp của Vũ Nương phải chịu oan khuất nên phần cuối chuyện đầy ắp những chi tiết hoang đường kì ảo. Ngay ở phía sau câu chuyện của Phan Lang, Trương Sinh lúc này cũng lập đàn giải oan cho vợ. Vũ Nương trở về dù chỉ thấp thoáng trong giây lát thôi cũng cũng đã thể hiện được quan niệm của tác giả. Người phụ nữ trong xã hội cũ luôn bị rơi vào tình cảnh bị tước đoạt hạnh phúc, cho dù họ có tốt như nào đi chăng nữa thì vẫn bị các thế lực khác chà đạp vào mức đường cùng không lối ra.
Tác giả đã thông qua nhân vật Vũ Nương để tố cáo và lên án chiến tranh phi nghĩa làm phá vỡ hạnh phúc gia đình của con người. Nguyễn Dữ xây dựng lên nhân vật Vũ Nương thật tài tình, đây là một nhân vật thể hiện được rất nhiều quan điểm nghệ thuật nhân sinh và giúp cho tác phẩm trở nên hay hơn, hấp dẫn hơn.
Nguyễn Dữ sống ở thế kỷ 16, là một người học rộng, tài cao nhưng bất mãn với thời cuộc, chọn cách sống ẩn dật. “Chuyện người con gái Nam Xương” là thiên truyện thức 16 trích trong tập Truyền kì mạn lục, một tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Dữ.
Vũ Nương là nhân vật chính trong truyện; là người phụ nữ bình dân có truyền thống tốt đẹp về đạo đức, phẩm chất nhưng trong xã hội phong kiến phải chịu đau khổ. Đọc “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ ta thương nhân vật Vũ Nương người con gái thùy mị nết na, tư dung tốt đẹp, người vợ hiền con thảo nhưng bị hàm oan phải tự tử để bảo vệ danh tiết.
Vũ Nương là người con gái đẹp người, đẹp nết, lấy chồng là Trương Sinh, con nhà hào phú. Hạnh phúc chưa được bao lâu thì quân giặc quấy nhiễu biên cương, Trương Sinh phải đi lính. Do hoàn cảnh trớ trêu và những nghi kị của chồng, Vũ Nương đã chọn lấy một cái chết oan ức, để lại cho nhân gian biết bao thương cảm.
Vũ Nương là người phụ nữ đẹp người, đẹp nết: “vốn đã thùy mị, nết na lại thêm tư dung, tốt đẹp”. Nàng có nhiều phẩm chất tốt đẹp, mẫu mực mà một người phụ nữ cần có. Là người vợ dịu hiền, biết giữ gìn khuôn phép. Lúc chồng còn ở nhà, nàng hiểu tính chông, chưa từng để gia đình phải bất hòa. khi chồng đi xa, nàng vẫn một lòng chung thủy, thương nhớ chồng khôn nguôi, mong chồng trở về bình yên vô sự, ngày qua tháng lại một mình vò võ nuôi con.
Là người con dâu hiếu thảo. Khi Trương Sinh ra trận, người mẹ vì mong nhớ con trong lòng khổ sầu. Nàng lựa lời an ủi, giúp mẹ nguôi ngoai. Lúc bà ốm, nàng tận tình chăm sóc như mẹ đẻ của mình. Lúc bà mất, nàng lo việc ma chay, tế lễ chu toàn.
Là người mẹ yêu thương con: Một mình chăm sóc con nhỏ khi chồng đi vắng. Nàng luôn tìm cách bù đắp thiếu thốn tinh thần của con bằng cách chỉ vào bóng mình trên tường giả làm cha đứa bé.
Là người phụ nữ trọng nhân phẩm, tình nghĩa. Khi bị chồng nghi oan, nàng hết lời giải thích, phân trần nhưng không được. Tuyệt vọng, nàng chọn cái chết để minh oan cho mình. Khi ở dưới thủy cung, nàng ngày đêm mong nhớ quê hương.
Là người phụ nữ giàu lòng vị tha: Bị Trương Sinh đẩy đến đường cùng phải chết oan ức nhưng không oán trách, hận thù. Khi trương Sinh lập đàn giải oan ở bến sông vẫn hiện về nói lời “đa tạ tình chàng”.
Trương sinh đa nghi, hồ đồ, vì nghe lời con trẻ ngây thơ đã nghi oan, cho rằng nàng đã thất tiết, sỉ mắng nàng thậm tệ. Vũ Nương đau khổ, khóc lóc bày tỏ nỗi oan với chồng nhưng chồng vẫn không nghe còn mắng nhiếc, đánh và đuổi nàng đi. Không thể thanh minh được, nàng tìm đến cái chết để tỏ bày nỗi oan ức của mình. Ở thuỷ cung, nàng vẫn nhớ quê hương, có ngày tất phải tìm về. Tìm về là để giải bày nỗi oan với chồng, với mọi người. Nhưng nàng không thể trở về với nhân gian được nữa.
Chuyện người con gái Nam Xương đã thể hiện niềm thương cảm với số phận oan nghiệt của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ: hiếu thảo, son sắt, nhân hậu. Đồng thời, lên án, tố cáo chiến tranh phi nghĩa, phê phán nhiều thói xấu trong xã hội như thói gia trưởng, thô bạo, bất bình đẳng giới.. luôn chà đạp, vùi dập người phụ nữ.
Đặc biệt, với nghệ thuật xây dựng nhân vật tài tình, nhân vật được xây dựng qua lời nói và hành động. Tạo dựng tình huống để thử thách nhân vật, khắc họa nhân vật qua ngoại hình, hành động, đối thoại… kết hợp với yếu tố kì ảo có thực Các lời trần thuật và đối thoại của nhân vật sử dụng nhiều hình ảnh ước lệ nhưng vẫn khắc họa đậm nét và chân thật nội tâm nhân vật.
Thông qua cuộc đời và số phận của nhân vật Vũ Nương, tác phẩm tố cáo xã hội phong kiến xem trọng quyền uy của kẻ giàu có và của người đàn ông trong gia đình, tố cáo chiến tranh phi nghĩa khiến cho con người chịu nhiều oan khuất và bế tắc, phải tìm đến cái chết để kết thúc bi kịch cuộc đời. Tác phẩm ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam thông qua nhân vật Vũ Nương: thùy mị, nết na, luôn giữ gìn khuôn phép, hết mực thủy chung với chồng. Những phẩm chất tốt đẹp của Vũ Nương cũng chính là nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam cần được tôn vinh trong mọi thời đại.
Hải Dương là một mảnh đất hiếu học, nơi ấy đã sản sinh ra nhiều nhân tài cho đất nước như Nguyễn Dữ, một nhà văn lớn, một học trò xuất sắc của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông có nhiều đóng góp cho nền văn học trung đại nước nhà trong đó tác phẩm Truyền kì mạn lục gồm hai mươi câu chuyện nhỏ đã gây nên một tiếng vang lớn và khiến nhiều người biết đến ông hơn. Chuyện người con gái Nam Xương chính là câu chuyện thứ 16 trong Truyền kì mạn lục để lại nhiều ấn tượng đối với bạn đọc. Tác giả đã chạm đến cảm xúc của người đọc khi mà lột tả được hết bi kịch trong cuộc đời của người con gái tên là Vũ Nương.
Người con gái ấy mang trong mình rất nhiều phẩm chất tốt đẹp. Nàng sinh ra trong một gia đình nghèo khó về vật chất nhưng lại có nhan sắc, đức hạnh. Vốn dĩ những người phụ nữ như vậy phải được hưởng một cuộc sống hạnh phúc nhưng hồng nhan thì bạc mệnh, có lẽ đó là lời nguyền chung. Như Thúy Kiều của Nguyễn Du, một người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng lại phải sống một cuộc đời đầy khổ ải, chịu nhiều tủi nhục. Trở lại với Vũ Nương, nàng được Nguyễn Dữ miêu tả là người phụ nữ có tính tình thùy mị, nết na lại thêm tư duy tốt đẹp. Vũ Nương mang một vẻ đẹp thuần khiết của một người phụ nữ Việt Nam thời xưa mà như Hồ Xuân Hương đã từng viết trong tác phẩm của mình là “vừa trắng lại vừa tròn”. Chính nhờ những vẻ đẹp ấy của mình mà Vũ Nương lọt vào mắt xanh của Trương Sinh, con trai nhà hào phú. Nàng được gả về làm vợ Trương Sinh với mức giá trăm lạng vàng, một cuộc hôn nhân không bình đẳng, không phải vì tình yêu. Mà thời xưa, phụ nữ Việt đâu có được sống với tình yêu, với thanh xuân.
Lấy được một người chồng có gia thế, lẽ ra Vũ Nương phải được sống hạnh phúc trong nhung lụa. Nhưng nàng không vì giàu sang mà đánh đổi bản thân mình. Nàng vẫn giữ được cái đức hạnh của một người con gái chân quê. Nàng chăm chỉ làm lụng lo cho gia đình nhà chồng. Nàng chăm sóc mẹ chồng như chăm sóc mẹ đẻ của mình. Cưới nhau chưa được bao lâu thì Trương Sinh phải đi lính, nàng một mình ở nhà chăm sóc mẹ già lại thêm đứa con ở trong bụng, vất vả đủ đường. Đứa con chào đời mà người chồng vẫn chưa trở về, Vũ Nương mòn mỏi chờ đợi chẳng khác nào người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm khúc. Nàng vẫn luôn giữ gìn khuôn phép, giữ trọn đạo lý làm vợ, làm mẹ. Nàng khéo léo vun vén hạnh phúc gia đình, thu vén công việc và cho thấy mình là một người phụ nữ thông minh. Nàng khiến cho bà con làng xóm, mẹ chồng ai cũng đều yêu mến.
Với mẹ chồng, nàng chăm sóc bà tận tình và điều đó thể hiện rõ nét nhất trong những ngày cuối đời của bà. Một mình người phụ nữ bé nhỏ là Vũ Nương phải chạy đôn chạy đáo lo thuốc thang cho mẹ chồng. Bà không qua khỏi, nàng lại vất vả lo ma chay. Phải mạnh mẽ lắm, giỏi giang lắm thì Vũ Nương mới đủ sức một mình gồng gánh quá nhiều công việc như vậy. Kể mà có một người đàn ông trong nhà thì nàng đỡ khổ bao nhiêu. Mẹ chồng nàng trước khi qua đời cũng đã ghi nhận công lao của nàng với gia đình nhà chồng mà trăn trối rằng “Sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức giống dòng tốt tươi, xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.
Với con trai, nàng vừa là mẹ, vừa là cha. Những đứa trẻ lớn lên thiếu thốn tình cảm của người cha thường có sự mặc cảm trong lòng. Chưa kể chúng còn dễ bị người đời dè bỉu. Tất nhiên, cha Đản đi lính nên không ai dè bỉu Đản cả. Thế nhưng Vũ Nương vẫn sợ con mình cảm thấy thiếu thốn tình cha. Và để bù đắp cho sự thiếu thốn ấy, đêm đêm nàng chỉ vào cái bóng của mình ở trên tường và bảo với con đó chính là cha của con. Nàng không ngờ rằng chính vì điều này đã khiến cuộc đời nàng rơi vào bi kịch.
Trương Sinh chồng nàng là một người có tính đa nghi. Cộng thêm hoàn cảnh chiến tranh đẩy cặp vợ chồng này phải xa nhau nên Trương Sinh càng trở nên đa nghi hơn. Chuyện cái bóng thông qua lời kể của bé Đản khiến Trương Sinh nghi ngờ tình cảm và sự chung thủy của người vợ. Sự mù quáng của Trương Sinh khiến chàng không muốn nghe ai nói, không muốn nghe bất cứ một lời giải thích nào. Chàng vội kết tội Vũ Nương là người không chung thủy mặc cho nàng giải thích. Thậm chí, Vũ Nương còn bị mắng nhiếc thậm tệ và bị đuổi đi. Vũ Nương không còn cách nào khác, nàng đã mượn dòng nước quê hương để giãi bày nỗi lòng trong trắng của mình. Đáng thương thay số phận người phụ nữ bị chính người thân yêu nhất của mình đẩy vào con đường cùng.
Qua Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ chúng ta cảm nhận được Vũ Nương là một người phụ nữ có tư chất thông minh, tâm hồn trong sáng và cao đẹp. Nàng thà chết để giữ sạch sự trong sáng, giữ sạch phẩm hạnh của mình còn hơn là sống mà để cho người ta nghi ngờ. Như cảm thông cho số phận của người phụ nữ này và cũng như một cách lên tiếng bảo vệ người phụ nữ, Nguyễn Dữ đã để cho nàng được sống dưới long cung nhưng không cho nàng trở về để cảnh tỉnh những người đàn ông như Trương Sinh. Một lời nói ra có thể giết chết một con người và chúng ta sẽ không thể nào sửa chữa được sai lầm to lớn ấy. Trương Sinh sau khi nghe câu chuyện của Phan Lang đã lập đàn giải oan cho vợ nhưng cũng không đủ giúp chàng giải thoát được sự giằn vặt từ sâu trong tâm can.
Từ nỗi khổ, nỗi bất hạnh của Vũ Nương, ta cũng cảm nhận được nỗi đau của những người phụ nữ sống trong xã hội cũ. Chính chiến tranh đã gây nên tội ác lớn lao cho con người, khiến đôi lứa phải xa nhau, mẹ phải xa con, vợ phải xa chồng. Trên hết, Nguyễn Dữ thông qua hình ảnh Vũ Nương đã ca ngợi những phẩm chất tuyệt vời của người phụ nữ Việt Nam thời xưa.
(Bánh trôi nước – Hồ Xuân Hương)
Bà chúa thơ Nôm đã từng viết về thân phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến ngày xưa như thế. Họ xinh đẹp, tài năng, có những phẩm chất tốt nhưng lại bị cuộc đời chà đạp. Để bênh vực số phận của họ đã có rất nhiều những nhà văn, nhà thơ lên tiếng qua các sáng tác, trong đó có Nguyễn Dữ với Chuyện người con gái Nam Xương, trích trong Truyền kì mạn lục, một tác phẩm văn xuôi viết bằng chữ Hán của ông. Tác phẩm kể về bi kịch cuộc đời của nhân vật Vũ Nương- một người con gái tư dung tốt đẹp, tính thuỳ mị nết na nhưng lại có một số phận oan trái.
Chuyện người con gái Nam Xương là tiếng nói đồng cảm, trân trọng, ngợi ca của tác giả đối với con người, đặc biệt là người phụ nữ. Nhân vật chính là Vũ Nương, người con gái quê Nam Xương, vốn con kẻ khó nhưng có một khát khao bao trùm cả cuộc đời – đó là “thú vui nghi gia nghi thất”. Nàng vừa có nhan sắc, vừa có đức hạnh, mang đầy đủ vẻ đẹp của một người phụ nữ lý tưởng “Tính đã thuỳ mị nết na, lại thêm có tư dung tốt đẹp. Khi xây dựng nhân vật này, Nguyễn Dữ không mấy chú trọng đến “tư dung” – ngoại hình mà ông quan tâm nhiều đến những phẩm chất tốt đẹp của nàng. Vậy, sự thuỳ mị nết na ấy của Vũ Nương được biểu hiện như thế nào?
Trước hết, Vũ Nương là một người phụ nữ khát khao hạnh phúc gia đình, không màng công danh và thuỷ chung, yêu thương chồng hết mực.
Trong những ngày đoàn viên ngắn ngủi, dù Trương Sinh “có tính đa nghi, phòng ngừa quá sức” nhưng nàng đã “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà”. Thế rồi chiến tranh xảy ra, người chồng yêu dấu của nàng phải đi lính. Mong ước lớn nhất của nàng không phải là công danh phú quý mà nàng chỉ khát khao ngày chồng mình trở về “mang theo hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Mong ước ấy thật là bình dị. Vũ Nương đã khát khao và coi trọng hạnh phúc gia đình hơn mọi công danh phù phiếm ở trên đời.
Và rồi, người chồng yêu dấu của nàng đã ra đi. Trong xa cách, Vũ Nương luôn thương nhớ chồng khôn xiết, nỗi nhớ ấy cứ dài theo năm tháng: “Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Người thiếu phụ trẻ trung xinh đẹp ấy một lòng một dạ chờ chồng, nuôi con. Thế mà khi Trường Sinh trở về, nhân vật chính của chúng ta lại bị nghi oan là thất tiết. Đây là một cái án quá lớn đối với nàng. Trước sự đối xử tệ bạc: mắng nhiếc, đánh đập, đuổi đi của người mà suốt ba năm xa cách nàng luôn đằng đẵng nhớ thương ấy, Vũ Nương vẫn cố phân trần, khẳng định sự thuỷ chung của mình và cầu xin “Mong chàng một mực đừng nghi oan cho thiếp”. Nghĩa là người con gái này vẫn hết lòng tìm cách hàn gắn cái hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ. Thế nhưng mong ước bình dị, “cái thú vui nghi gia nghi thất” ấy đã vỡ tan. Tổ ấm mà nàng đã dày công gây dựng nên đã bị Trương Sinh phá vỡ nhưng người thiếu phụ này vẫn luôn nhớ đến chồng nên khi sống dưới thuỷ cung, nghe Phan Lang nhắc đến gia đình, nàng cũng “ứa nước mắt” và muốn được trở về. Dưới ngòi bút của Nguyễn Dữ, nhân vật Vũ Nương hiện lên rất đỗi dịu dàng, đằm thắm, thiết tha với hạnh phúc gia đình, không hư danh và thương chồng hết mực.
Không những thế, nhân vật này còn là một con dâu hiếu thảo, một người mẹ yêu thương con hết mực. Một mình nàng phải chịu bao gian lao, vất vả; nào là khi sinh đẻ không ai đỡ đần, nào là một thân vừa nuôi con thơ, vừa chăm sóc mẹ chồng già yếu. Thế nhưng nàng đã lo tròn chu tất lo thuốc thang cầu khẩn thần phật và lúc nào cũng dịu dàng ân cần lấy lời ngọt ngào, khôn khéo khuyên lơn. Rồi khi mẹ chồng mất, nàng lại một mình lo việc ma chay, tế lễ chôn cất như đối với cha mẹ đẻ của mình. Ngòi bút của Nguyễn Dữ thật già dặn khi để cho chính người mẹ chồng ấy nhận xét về tấm lòng hiếu thảo của nàng trước khi bà qua đời: “Sau này trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn. Xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ.”. Rõ ràng, trong mắt của bà, nàng là một “người lành”.
Còn đối với bé Đản thì sao? Nàng luôn yêu thương và chăm sóc con chu đáo. Và cũng có lẽ vì yêu thương con, vì muốn con lúc nào cũng có cha ở bên, không cảm thấy thiệt thòi về mặt tình cảm nên Vũ Nương đã chỉ bóng mình ở trên tường mà bảo là cha nó để dỗ dành con. Cuộc đời Vũ Nương tuy ngắn ngủi nhưng nàng đã làm tròn nghĩa vụ của một người phụ nữ: làm con dâu, làm vợ, làm mẹ.
Qua cách xử thế cũng như qua lời nói, thái độ, hành động, ta còn thấy hiện lên một Vũ Nương coi trọng nhân phẩm. Trước sự nghi oan của chồng, nàng đã tìm đến cái chết với lời than: “Nếu thiếp đoan trang giữ tiết trinh bạch gìn lòng thì vào nước xin làm ngọc Mị Nương, dưới đất xin làm cỏ Ngu Mĩ”. Lời than như một lời nguyền xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và tiết sạch giá trong của mình. Hành động tự trẫm mình của nàng là một hành động quyết liệt để bảo toàn danh dự, có nỗi tuyệt vọng đắng cay nhưng cũng có sự chỉ đạo của lý trí “tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời than” không phải là một hành động bột phát trong cơn nóng giận như truyện cổ tích miêu tả. Và khi không còn ở dương gian, sống ở cõi âm, nàng vẫn muốn trở về, muốn khát khao được phục hồi danh dự. Dường như Nguyễn Dữ đã tập trung những nét điển hình của người phụ nữ Việt Nam vào nhân vật Vũ Nương. Đó là hình ảnh người phụ nữ lý tưởng trong xã hội phong kiến ngày xưa.
Lẽ ra, với sự dịu dàng, đảm đang, tháo vát, hiểu nghĩa, tận tụy và chung tình đó, người phụ nữ này phải được đền bù xứng đáng bằng một gia đình yên ấm. Nhưng oái oăm thay, Vũ Nương lại phải nhận lấy một số phận đau thương – nàng phải chết. Đó chính là bi kịch về số phận con người. Ngày sum họp cũng là ngày nàng lìa xa tổ ấm. Và đau đớn hơn, kẻ đẩy nàng vào cái chết bi thảm không phải ai xa lạ mà chính là người chồng nàng hằng thương nhớ “cách biệt ba năm giữ gìn một tiết” và đứa con trai duy nhất của nàng. Chỉ vì tin lời con trẻ và do ghen tuông mù quáng mà Trương Sinh đã nghi ngờ và gán cho vợ là thất tiết. Chàng ta đã hành hạ, đánh đập, nhiếc móc Vũ Nương không tiếc lời, không nghe lời “biện bạch mà bênh vực cho nàng” của hàng xóm cũng như những lời phân trần, giãi bày của vợ để Vũ Nương phải lấy cái chết để bày tỏ lòng mình. Một cái chết thật đớn đau và oan uổng. Cái chết đó khác nào bị bức tử mà kẻ bức tử lại hoàn toàn vô can. Qua thân phận của nhân vật này, nhà văn muốn tố cáo xã hội phong kiến và bày tỏ niềm cảm thương của tác giả đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ. Vũ Nương cũng như bao người con gái khác, họ đều phải chịu một số phận đau thương như thế. Một cung nữ trong “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều mòn mỏi trong cung cấm để tuổi xuân phải trôi qua trong nỗi tiếc nuối, đợi chờ. Một Thuý Kiều tài sắc vẹn toàn mà phải mười lăm năm lưu lạc, dang dở tình duyên, hai lần vào lầu xanh, trải qua những tháng ngày nhục nhã… Những người phụ nữ đức hạnh này không được che chở, bênh vực mà còn bị đối xử một cách bất công, vô lý.
Để xây dựng thành công hình tượng nhân vật Vũ Nương, một yếu tố mà ta không thể không nhắc đến, ấy là nghệ thuật kể truyện. Truyện có rất nhiều lời thoại và lời tự bạch của nhân vật được sắp xếp rất đúng chỗ làm cho câu chuyện trở nên sinh động, góp phần không nhỏ vào việc khắc hoạ tính cách nhân vật. Qua lời nói của Vũ Nương với Trương Sinh, với mẹ chồng và những lời tự bạch của nàng trước khi chết bao giờ cũng chân thành, dịu dàng, mềm mỏng, có lý có tình ngay cả trong lúc đang tức giận nhất đã cho ta thấy được sự nết na, hiền thục trong trắng, không có gì đáng khuất tất của nhân vật này. Nguyễn Du đã đan xen những yếu tố kì ảo vào truyện: Vũ Nương không chết. Nàng ở dưới thuỷ cung, hiện lên ở bến sông với lời tạ từ ngậm ngùi: “Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về dân gian được nữa” đã làm cho thế giới kì ảo lung linh, mơ hồ trở nên gần gũi với cuộc đời thực, hoàn thiện thêm nét đẹp của tính cách nhân vật Vũ Nương: dù ở thế giới khác vẫn nặng tình với cuộc đời, quan tâm đến chồng con và khát khao được phục hồi danh dự. Cũng qua chi tiết ảo này, người đọc thấy rõ hơn về số phận đau thương của nhân vật chính. Nỗi oan của nàng quá lớn nên không có đàn nào giải nổi.
Trên cơ sở cốt truyện có sẵn, nhà văn đã sắp xếp lại một số tình tiết, thêm bớt hoặc tô đậm những tình tiết có ý nghĩa: lời trăn trối của bà mẹ chồng đã khẳng định một cách khách quan nhân cách và công lao của Vũ Nương đối với gia đình chồng. Những lời phân trần, giãi bày của nàng khi bị nghi oan và hành động quyết liệt, bình tĩnh của nàng khi tìm đến cái chết làm cho hành động nhân vật trở nên đẹp hơn.
Câu chuyện đã khép lại nhưng tấm bi kịch về cuộc đời của nhân vật Vũ Nương và những phẩm hạnh của nàng mãi để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Nguyễn Dữ đã vượt khỏi công thức thông thường về hình tượng người phụ nữ trong thể truyền kì để xây dựng nên hình tượng của một người phụ nữ bình thường như bao người vợ, người mẹ khác trong đời. Tuy mang yếu tố hoang đường nhưng Chuyện người con gái Nam Xương vẫn là một áng văn giàu giá trị nhân đạo, có sức hấp dẫn đối với người đọc ngày nay.
Từ xa xưa đến nay, người phụ nữ Việt Nam luôn được tôn vinh bởi những nét đẹp truyền thống như sự hi sinh thầm lặng, thùy mị nết na hay sự gan dạ, dũng cảm, kiên cường bất khuất. Có rất nhiều tác phẩm văn học Việt Nam lấy đề tài về những đức tính tốt đẹp của người phụ nữ. Trong đó có Nguyễn Dữ, gương mặt tiêu biểu của văn học Việt Nam thế kỉ XVI, ông đã đặt niềm thương tiếc đặc biệt cho thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”.
Nguyễn Dữ là con trai cả Tiến sĩ Nguyễn Tường Phiêu, thầy học là Nguyễn Bỉnh Khiêm, và bạn học là Phùng Khắc Khoan. “Chuyện người con gái Nam Xương” là truyện thứ 16 trong tổng số 20 truyện của tác phẩm “Truyền kì mạn lục”. Truyện được coi là một cuốn “thiên cổ kì bút” về cuộc đời của người phụ nữ trong sự hà khắc của xã hội cũ cũng như tiếc thương cho số phận của họ, tiếc thương cho sự bất lực của họ khi không được nói lên tiếng lòng của mình. Nhân vật Vũ Nương là linh hồn của cả tác phẩm, nàng hội tụ đầy đủ những phẩm chất truyền thống tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam, đó là thủy chung với chồng, hiếu thảo với mẹ chồng và là người mẹ mẫu mực.
Thứ nhất, Vũ Nương là người phụ nữ thủy chung son sắc, một lòng chờ chồng khi chồng tòng quân đánh giặc. Khi chưa gả cho Trương Sinh, Vũ Nương vốn đã là người phụ nữ “người đã thùy mị nết na, lại thêm có tư dung tốt đẹp” được nhiều chàng trai thầm thương trộm nhớ. Khi vừa đôi chín, nàng được Trương Sinh đem “trăm lạng vàng cưới về”. Chỉ một chi tiết nhỏ cũng thấy được những hủ tục ngày xưa đã trói buộc người phụ nữ đến mức nào. Vũ Nương hoàn toàn không được quyết định hạnh phúc trăm năm của mình. Điểm mốc quan trọng nhất đời nàng được quyết định bằng trăm lượng vàng và sự thỏa thuận của gia đình hai bên. Chi tiết này chẳng khác nào Vũ Nương được bán đi với giá trăm lượng. Sau khi được gả cho Trương Sinh, nàng biết tính chồng hay ghen nên luôn “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”, nàng luôn là dâu hiền vợ thảo, chăm lo toàn vẹn cho gia đình nhà chồng, chưa để ai phải chê trách bất cứ điều gì.
Với tính đa nghi của Trương Sinh, cuộc sống vợ chồng của nàng không hề bất hòa là do sự gìn giữ của Vũ Nương, nàng luôn đặt chồng và mẹ chồng ở vị trí quan trọng, đem sự chân thành và thực lòng yêu thương họ. Điều này thể hiện rất rõ ràng trong lời tiễn biệt của nàng khi chồng chuẩn bị ra chiến trường, nàng không mong vinh hoa phú quý, “chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Rõ ràng, nàng không phải là người phụ nữ tham tiền tài cũng chẳng màng công danh, tất cả những gì nàng mong muốn cũng giống như bao chinh phụ khác đó là mong sự bình an trở về của người chồng. Không chỉ vậy, nàng cảm thông cho những khó khăn, vất vả mà chồng phải gánh ở nơi chiến trường, lo lắng cũng như muốn san sẻ những khó khăn ấy. Ngày xa chồng, nàng “ngước mắt trông lên đã đẫm nỗi buồn ly biệt”. Trong thời gian chờ chồng, nàng luôn “giữ gìn một tiết, tô son điểm phấn, từng đã nguội lòng, ngõ liễu đường hoa chưa hề bén gót”. Cách biệt ba năm, nỗi nhớ chồng của nàng theo năm tháng đầy vơi, “nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Dưới ngòi bút trân trọng của Nguyễn Dữ, Vũ Nương được phác họa là người phụ nữ dịu dàng nết na, nhất mực yêu thương và chờ đợi chồng cũng như khéo léo, tận tụy, luôn giữ gìn, vun vén cho hạnh phúc gia đình. Nguyễn Dữ vừa cảm thông cho nỗi nhớ chồng của người chinh phụ vừa ca ngợi tôn vinh những phẩm chất đáng quý của nàng.
Thứ hai, Vũ Nương là người phụ nữ hiếu thảo, hiếu nghĩa trong quan hệ với mẹ chồng. Khi Trương Sinh ra chiến trường, nàng thay chồng phụng dưỡng mẹ nhưng vì nhớ con mà bà mẹ sinh bệnh, nàng “hết sức thuốc thang, lễ Phật cầu thần, cúng ma gọi vía và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Khi mẹ chồng nàng qua đời, ma chay tế lễ nàng đều chu tất. Lời cuối của người mẹ chồng chính là minh chứng cho sự tận tụy, hiếu thảo của nàng “Sau này trời giúp người lành, ban cho phúc trạch, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, mong ông xanh kia chẳng phụ con cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ.” Những lời ca ngợi đẹp đẽ nhất ấy được nói ra từ người mẹ chồng lại khiến nó trở nên đáng quý hơn bao giờ hết. Nguyễn Dữ đã khắc họa nhân vật Vũ Nương với đầy đủ những phẩm chất đáng quý nhất, hiếu thảo hiếu nghĩa, hết lòng với mẹ chồng như cha mẹ đẻ.
Thứ ba, với con Vũ Nương luôn là người mẹ mẫu mực. Khi chồng đi xa, nàng một mình vượt cạn sinh ra bé Đản. Một mình gánh vác nhà chồng nhưng nàng chưa bao giờ chểnh mảng việc chăm nuôi con khôn lớn. Chi tiết mỗi tối nàng chỉ lên bóng mình và nói rằng cha Đản về cũng cho thấy rằng nàng luôn sợ con thiếu vắng tình cha nên luôn cố gắng bù đắp cho con. Dù phải dằn vặt với nỗi nhớ chồng cũng như chăm lo cho người mẹ chồng bị ốm nhưng Vũ Nương vẫn luôn nuôi dạy bé Đản khôn lớn với tình yêu thương vô bờ của người mẹ.
Người phụ nữ vẹn toàn hiếu đức ấy đáng lẽ ra xứng đáng một cuộc sống hạnh phúc suốt đời nhưng nàng lại phải chịu sự đa nghi của chồng mà gieo mình ở bến Hoàng Giang. Những lời của nàng trước khi chết là sự quyết liệt cuối cùng để chứng minh sự trong sạch “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu chồng con rẫy bỏ,điều đâu bay buộc tiếng chịu nhuốc nhơ,thần sông có linh xin ngài chứng giám,thiếp nếu đoan trang giữ tiết,trinh bạch gìn lòng,xuống nước xin làm ngọc Mỵ Nương,vào đất xin làm cỏ Ngu Mĩ…”. Bằng lời văn thống thiết, nhịp điệu dồn dập, cái chết của Vũ Nương đã tố cáo trước hết là tư tưởng nam trưởng phong kiến cổ hủ, độc đoán đối với người phụ nữ đã biến những người chồng như Trương Sinh trở thành những tên ác quỷ của gia đình, sau đó lên án chiến tranh phi nghĩa đã làm để những người vợ trở thành chinh phụ mòn mỏi chờ chồng.
Tóm lại, bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật sắc sảo cùng với việc sử dụng các yếu tố kì ảo, Nguyễn Dữ là thành công xây dựng nhân vật Vũ Nương hội tụ đầy đủ các phẩm chất đáng quý của người phụ nữ Việt Nam. Qua bao nhiêu năm tháng cũng như bao tác phẩm văn học ra đời thì nhân vật Vũ Nương vẫn là một tấm gương sáng về sự hi sinh, tận tụy, hiếu nghĩa, chung thủy. Cũng qua nhân vật này, tác giả còn gián tiếp phê phán tư tưởng nam quyền trong xã hội phong kiến đồng thời phê phán những định kiến cổ hủ đặt nặng lên đôi vai người phụ nữ thời bấy giờ.
Trong hành trình dài của văn học Việt Nam, có rất nhiều tác phẩm mang tên gọi truyền kì hoặc có yếu tố truyền kì nhưng chỉ có “Chuyện người con gái Nam Xương” mới xứng đáng với danh “thiên cổ kỳ bút”. Nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” là biểu tượng cho những phẩm chất tốt đẹp nhất của người phụ nữ Việt Nam để ngàn đời sau noi theo.
Văn Mẫu Lớp 9: Cảm Nhận Về Bi Kịch Của Nhân Vật Vũ Nương Trong Chuyện Người Con Gái Nam Xương Dàn Ý &Amp; 8 Bài Văn Mẫu Hay Nhất Lớp 9
Đọc Chuyện người con gái Nam Xương độc giả càng cảm thương sâu sắc cho số phận của Vũ Nương, người con gái mang bao phẩm chất tốt đẹp nhưng phải gánh chịu cuộc đời bất hạnh, bi thương. Chi tiết mời các em cùng theo dõi bài viết để học tốt mônVăn 9 hơn.
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Nguyễn Dữ, “Chuyện người con gái Nam Xương” và số phận bi kịch của Vũ Nương.
2. Thân bài
a. Vẻ đẹp của Vũ Nương
Vũ Nương là cô gái xinh đẹp: tư dung tốt đẹp.
Là cô gái có đức tính tốt đẹp: thùy mị, nết na.
→ Khiến chàng Trương đem lòng yêu mến và cưới về làm vợ.
Ngày chồng tòng quân: nàng đau lòng, dặn dò và mong chồng bình an trở về.
Khi chồng ra trận: ở nhà một lòng một dạ chăm sóc con trai và chăm sóc mẹ chồng những ngày cuối đời.
→ Là người vợ hiền lành, đảm đang, đầy đủ “công – dung – ngôn – hạnh” đáng ngưỡng mộ.
→ Là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ với những phẩm hạnh tốt đẹp.
b. Số phận bi kịch của Vũ Nương
Nguyên nhân: khi chồng bế con ra thăm mộ mẹ, đứa nhỏ đã tiết lộ bố nó đêm nào cũng đến thăm nó → Trương Sinh đem lòng nghi ngờ, ghen tuông.
Khi Trương Sinh về nhà đã chửi mắng nàng và đuổi nàng đi mặc cho nàng van xin và thanh minh.
→ Người phụ nữ không được tự quyết định số phận của mình mà phải phụ thuộc vào người đàn ông trong gia đình. Tuy mình bị oan nhưng không được thanh minh.
Để chứng minh tấm lòng chung thủy của mình Vũ Nương đã nhảy sông tự tử.
→ Đau khổ, xót thương trước số phận bất hạnh của nàng sau những điều tốt đẹp nàng đã làm cho nhà chồng.
Sau này, khi Trương Sinh hiểu ra oan khuất của nàng đã vô cùng đau xót nhưng nàng không thể trở về nhân gian được nữa mà mãi ở lại nơi thủy cung. → Đây được coi là cái kết vừa có hậu vừa đoản hậu của Vũ Nương: có hậu vì cuối cùng nàng cũng được minh oan và khiến cho người làm nàng đau khổ là Trương Sinh nhận ra lỗi lầm, ân hận về lỗi lầm đó; đoản hậu vì nàng không được quay lại nhân gian để sống tiếp kiếp người, để nhận lại phúc đức sau những nghĩa cử cao đẹp nàng đã làm.
3. Kết bài
Khẳng định lại số phận của Vũ Nương và giá trị của tác phẩm.
“Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ là một trong những tác phẩm được đánh giá cao bởi sự đan xen hòa quyện giữa giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực sâu sắc. Nổi bật trong tác phẩm là một người phụ nữ đức hạnh, luôn khao khát một cuộc sống hạnh phúc nhưng bởi do những lễ giáo phong kiến khắc nghiệt và sâu xa hơn là do chiến tranh gây ra đã khiến cái ước mơ bé nhỏ đó không trở thành hiện thực mà nó còn làm cho người phụ nữ đó rơi vào một tấn bi kịch không lối thoát. Người phụ nữ đó tên là Vũ Nương mang một nét tài sắc, nhưng lại mang một số phận đầy thảm thương, cay đắng.
Mở đầu tác phẩm, hình ảnh của Vũ Nương được tác giả thể hiện qua các câu văn biền ngẫu. Tác giả không nêu tư dung trước mà nêu phẩm giá, đức hạnh của người con gái đoan trang này. Đằng sau những câu văn tưởng chừng như thuật lại là một thái độ trân trọng ngợi ca. Lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam, Vũ Nương lại được xuất hiện trong vẻ đẹp bình thường, giản dị, hoàn thiện, hoàn mỹ. Đó là một vẻ đẹp chuẩn mực trong xã hội phong kiến. Vũ Nương chính là hiện thân của vẻ đẹp truyền thống, muôn đời của người con gái Việt Nam. Chỉ bằng những miêu tả ngắn gọn, súc tích đã tạo lên một trường liên tưởng cho người đọc.
Xuất thân trong một gia đình nghèo, nhưng ở cô vẫn ánh lên bởi những phẩm chất cao quý mà không thấp hèn. Dù được gả vào một gia đình giàu có, nhưng không vì thế mà cô ham giàu sang, phú quý. Cuộc sống của cô trước và sau khi về nhà chồng vẫn thế, vẫn chăm chỉ làm lụng để không làm phụ lòng ai. Ai ai cũng đều yêu mến cô, ngay cả với mẹ chồng.
Vẻ đẹp của Vũ Nương không chỉ bởi nhan sắc bên ngoài, mà ngược lại nó lại được thể hiện rõ hơn qua phẩm chất, cách xử sự và tình cảm mà cô hết lòng dành cho gia đình nhỏ bé của mình.
Lấy chồng chẳng được bao lâu thì cô nghe tin chồng phải đi lính. Đây là tình huống đầu tiên mà tác giả đặt ra thử thách đối với cô. Không ham giàu sang phú quý, cô chỉ có một mong muốn nhỏ nhoi là được sống hạnh phúc bên gia đình. Khác hẳn với những người phụ nữ, mong muốn chồng đi lính để có thể thăng quan, tiến chức, nhưng Vũ Nương lại không muốn chồng ra chiến trường vì lo lắng cho an nguy của chồng. Lối nói ước lệ: “Nhìn trăng soi …đất thú” để diễn tả tâm trạng của người phụ nữ luôn lo lắng cho phu quân của mình. Đi lính ra chiến trường thì lành ít dữ nhiều. Ở đây, vẻ đẹp của Vũ Nương được ánh lên thông qua một tâm hồn trong sáng, không quen công danh, một người chỉ luôn hướng về chồng, lo lắng cho chồng và hết mực yêu thương.
Không chỉ đối với chồng, ngay cả đối với mẹ chồng cô cũng thực hiện tốt nghĩa vụ của một người con dâu, thay chồng chăm sóc mẹ, không để mẹ phàn nàn dù chỉ một tiếng. Cô coi mẹ chồng như mẹ ruột của mình và khi mẹ mất thì hết lời thương xót, ma chay tử tế như đối với mẹ đẻ của mình. Cô là một người con dâu hiếu thảo, hiếm có.
Khi chồng ra chiến trường, mẹ chồng thì mất, một mình Vũ Nương chăm lo, quán xuyến hết việc trong gia đình. Cô vừa là cha, vừa là mẹ của con. Luôn chỉ dạy những điều hay lẽ phải cho con.
Trong câu chuyện, một lần nữa tác giả đặt nhân vật vào trong một tình huống hay cũng chính là bi kịch của cuộc đời cô. Chi tiết cái bóng chính là chi tiết đã làm nên bi kịch của cuộc đời cô. Vì muốn con được yêu thương, không muốn con bị thiếu thốn tình cảm mà mỗi đêm, cô chỉ lên trên bức tường, nơi có cái bóng của mình và bảo con trai: “Đây chính là bố của con”. Vì muốn con có bố, tránh sự tổn thương hay cũng là chỗ dựa vững chắc của Vũ Nương rằng chồng vẫn luôn ở bên, để tránh khỏi mọi lo toan, mệt nhọc, mọi khoảng cách đều bị xóa nhòa. Vì muốn hạnh phúc, vì muốn con được có bố khi bố ra trận, vì muốn có chỗ dựa cho chính mình mà Vũ Nương đã bảo với đứa trẻ ngây dại cái bóng là bố của mình. Để rồi, khi người chồng trở về, do nghe lời con nhỏ mà đã đưa vợ mình vào bước đường cùng. Phải lấy cái chết để chứng minh sự trong sạch của mình.
Làm sao có thể tưởng tượng rằng, người phụ nữ luôn ngày đêm chờ ngóng chồng về, mong chồng về để gia đình trở nên hạnh phúc, thế mà giờ đây lại thành ra như vậy? Bao năm tháng qua, đến khi chồng về, cô sẽ có chỗ dựa vững chắc, để không phải một thân chăm sóc con. Vậy mà giờ thì sao đây?
Chiến tranh, chính là chiến tranh là nguyên nhân sâu xa đã khiến cho vợ chồng Vũ Nương chia tay và gây ra tấn bi kịch này. Chiến tranh đã khiến con người ta trở nên đa nghi, để một người cha thà nghe đứa trẻ con ngây dại nói chứ không chịu nghe người vợ tần tảo sớm hôm, nghe những người hàng xóm xung quanh để rồi Vũ Nương đã phải đắm mình xuống sông tự vẫn.
Cái chết để chứng minh sự trong sạch, để rửa oan và khẳng định danh tiết cho mình, cái chết để quên đi mọi thứ của thực tại. Nhưng nguyên nhân nào đã khiến cho một người luôn khao khát mãnh liệt sự sống, mưu cầu hạnh phúc phải chết? Là do cái ngây thơ của trẻ con, do cái thói ghen tuông mù quáng, do lễ giáo phong kiến hay do chiến tranh gây nên. Nhưng có lẽ, cái lối hành xử của Trương Sinh đem đến chính là sản phẩm của lễ giáo phong kiến gây ra.
Nhân vật Vũ Nương chính là linh hồn của câu chuyện. Nhà văn đã thể hiện vẻ đẹp, phẩm chất của Vũ Nương thông qua việc thể hiện vẻ đẹp và phẩm chất trong sáng của cô. Qua việc miêu tả hình ảnh của nhân vật Vũ Nương nhằm nhận ra được tấn bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Một bi kịch không thể tránh khỏi mà thủ phạm gây ra cái chết oan ức cho cô… lại là chế độ phong kiến. Hơn thế nữa tác giả còn thể hiện cái nhìn đồng cảm, xót thương trước số phận của Vũ Nương nói riêng và của người phụ nữ trong xã hội phong kiến nói chung.
“Chuyện người con gái Nam Xương” là truyện thứ 16 và cũng là truyện tiêu biểu nhất trong thiên truyện “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ. Nguyễn Dữ đã rất thành công khi xây dựng hình tượng nhân vật Vũ Nương. Thông qua cuộc đời và số phận đầy bi kịch, khổ đau của nhân vật Vũ Nương tác giả đã phơi bày bộ mặt xấu xa, bất nhân của xã hội phong kiến đương thời đã chà đạp lên số phận con người. Đặc biệt là thân phận người phụ nữ.
“Chuyện người con gái Nam Xương” được xây dựng dựa trên một câu chuyện có thật là “Vợ chàng Trương” vốn được lưu truyền trong nhân gian. Trên cơ sở một câu chuyện cổ tích, Nguyễn Dữ đã có những hư cấu và sáng tạo tình tiết kì ảo để “Chuyện người con gái Nam Xương” trở thành một áng văn hấp dẫn, đặc sắc, giàu giá trị nhân văn.
Vũ Thị Thiết (thường gọi là Vũ Nương) quê ở Nam Xương. Vũ Nương là con nhà nghèo khó, đẹp người đẹp nết. Nàng có chồng là Trương Sinh, gia tư khá giả lại có tính hay đa nghi, đề phòng quá mức. Khi chồng đi lính, Vũ Nương ở nhà thay chồng tận tình phụng dưỡng mẹ già, chăm lo con nhỏ. Giặc tan, Trương Sinh trở về, đau buồn vì nghe tin mẹ mất. Bởi tin lời nói ngây thơ của con trẻ, Trương Sinh cho rằng vợ mình đã thất tiết nên đã có những hành động sỉ nhục, lăng mạ, và đánh đập Vũ Nương tàn tệ khiến nàng phải tìm đến cái chết trên bến Hoàng Giang. Cảm động trước mối oan tình của Vũ Nương, Linh Phi đã cứu nàng và cho nàng về sống ở thủy cung. Nhờ có Phan Lang, Trương Sinh hiểu ra mọi việc, chàng rất hối hận nhưng tất cả đã muộn màng. Chàng nghe lời lập đàn giải oan cho vợ. Vũ Nương hiện về nói lời cảm tạ nhưng nàng không trở về nữa.
Câu chuyện khép lại khiến người đọc không nguôi day dứt và cảm thương cho nhân vật. Tuy nàng đã được giải oan, nhưng hạnh phúc xưa kia đã không còn nữa. Đời đời kiếp kiếp nàng phải sống xa lìa chồng con, mãi cô đơn nơi góc bể chân trời. Đó là một bất công lớn đối với một con người hiền lành, đoan chính và xinh đẹp như nàng.
Vũ Nương vốn sinh ra trong một nhà nghèo khó. Danh phận của nàng không có gì là nổi bật ngoài việc ở nàng nết na thùy mị, tư dung tốt đẹp. Đây cũng là một điểm nhìn tiến bộ của Nguyễn Dữ. Ông tỏ ra quan tâm đến những con người bình dân vốn rất nhỏ bé trong xã hội phong kiến. Trước và sau ông, không ai có tấm lòng bao dung đến vậy.
Ở nhân vật Vũ Nương là hội tụ vẻ đẹp của một con người lý tưởng, có đầy đủ vẻ đẹp và phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam.
Trước hết, Vũ Nương là một người con gái có ngoại hình xinh đẹp, lại thêm tính cách cao quý. Vẻ đẹp ấy được Nguyễn Dữ giới thiệu ngày từ đầu thiên truyện: “Vũ Thị Thiết… tính đã nết na thùy mị, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Sự kết hợp toàn vẹn giữa vẻ đẹp hình dung và vẻ đẹp tâm hồn khiến cho Vũ Nương trở thành mẫu người lý tưởng của xã hội phong kiến đương thời. Cũng chính vì thế mà Trương Sinh đem lòng say mê, đã không ngại ngần xin mẹ trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ.
Khi về làm vợ Trương Sinh, những phẩm chất tốt đẹp ấy có dịp để thể hiện, phô bày. Nàng tỏ ra hiểu tính chồng, hết lòng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải dẫn đến thất hòa. Nàng luôn cư xử đúng mực, hết lòng vun vén cho hạnh phúc gia đình.
Khi tiễn chồng ra trận, nàng ân cần gửi lòng tha thiết, chỉ mong cầu được bình an, chẳng mong gì công danh phú quý: “Chàng đi chuyến này thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình an…”. Xong nàng ứa nước mắt, lòng buồn bã khôn xiết.
Trương Sinh ở ngoài mặt trận, Vũ Nương một mình ở nhà thay chồng phụng dưỡng mẹ già, nuôi dạy con thơ, canh cánh bên chồng nỗi mong nhớ người biên ải mà đêm dài thao thức. Người mẹ vì tuổi già sức yếu, không thể đợi con trở về, đã sớm xa lìa sự sống. Trước khi mất còn chối lời cảm ơn và cầu mong phúc lành cho con dâu hiếu thảo: “Xanh kia quyết chẳng phụ con như con đã chẳng phụ mẹ”.
Có thể nói, Vũ Nương đã sống trọn vẹn đức hạnh đối với gia đình. Nàng vừa là một người vợ đảm đang, người mẹ tận tụy, vừa là một con dâu hết lòng hiếu thuận. Tấm lòng của nàng có thể làm cảm động trời đất. Không những thế, đối với xung quanh, nàng rất hòa nhã nhu mì khiến cho ai cũng mến yêu cảm phục. Nàng chính là một mẫu mực của người phụ nữ trong xã hội phong kiến cần có. Thế nhưng, cuộc đời nàng lại nảy ra nhiều bất hạnh hết sức thương tâm.
Tấn bi kịch đời nàng xảy ra từ lúc mới bước chân về làm vợ Trương Sinh. Dù nàng chẳng làm điều chi trái ý nhưng đối với vợ, Trương Sinh lúc nào cũng tỏ ra đề phòng quá mức. Sự đề phòng của Trương Sinh khẳng định chàng chưa từng tin vào đức hạnh của vợ. Đó chính là điều sỉ nhục đầu tiên đối với phẩm hạnh của Vũ Nương.
Tuy nhiên, nàng luôn biết giữ phận, làm việc chu đáo, giữ được hòa khí vợ chồng. Cuộc sống có vẻ bình yên nhưng có lẽ đối với nàng có chút căng thẳng, hạnh phúc gắng gượng. Người phụ nữ xưa luôn bị coi thường. Trải qua thời gian, họ đã biết cam chịu, chấp nhận hoàn cảnh và không khi nào tỏ ra lấn lướt hay ngang bằng với chồng. Bởi thế, tuy Trương Sinh có đôi điều hằn học, nàng cũng khôn khéo mà làm tan được cơn giận, gia đình lúc nào cũng thuận hòa.
Chiến tranh gây ra cảnh ly biệt. Chiến tranh khắc sâu tính cách của Trương Sinh, làm cho tính đa nghi của chàng có dịp bùng phát lớn. Tuy không nói một lời nào nhưng có lẽ Trương Sinh không hề tin vợ. Ra trận, chàng không hề nói một lời từ biệt, cứ lẳng lặng mà đi. Bởi thế, khi trở về, chỉ cần một dấu hiệu nhỏ thôi, một dấu hiệu mơ hồ chưa chắc chắn – lời nói ngây thơ của con trẻ – đã khiến chàng vin vào đó, coi đó là bằng chứng kết tội vợ mình thất tiết.
Những hành động hồ đồ, tàn bạo của Trương Sinh đã khiến cho Vũ Nương rơi vào quẫn bách, tuyệt vọng mà tìm đến cái chết. Chi tiết Vũ Nương gieo mình xuống bến sông Hoàng Giang là hình ảnh có sức ám ảnh lớn, khiến cho người đời mãi mãi xót xa về tấn bi kịch đẫm đầy nước mắt của người phụ nữ tốt đẹp nhưng chịu nhiều oan ức, là tấn bi kịch cái đẹp bị chà đạp, bị rẻ rúng, bị vùi dập không thương tiếc, là bản án đanh thép tố cáo bộ mặt tàn bạo, bất nhân của xã hội phong kiến đương thời.
Theo mô típ truyện, có lẽ câu chuyện nên kết thúc ở chỗ này. Thế nhưng, Nguyễn Dữ muốn tìm lấy một lời giải đáp, một sự minh oan cho nhân vật của mình. Ông giống như một vị quan tòa, mở cuộc luận tội Trương Sinh, lấy lại sự trong sạch cho Vũ Nương và từ đó ca ngợi con người đức hạnh của nàng, phục dựng niềm tin trong cuộc sống bằng cách viết tiếp cuộc sống của nàng dưới thủy cung và cảnh lập đàn giải oan trên bến sông Hoàng Giang mịt mù khói tỏa.
Chốn thủy cung, Vũ Nương vẫn không nguôi nhớ chồng con, gia quyến. Dù chốn trần gian đã đoạn tuyệt nhưng lòng vẫn đau đáu hướng về nơi xưa cũ. Nàng muốn trở về nhưng ngại vì mối oan tình chưa được minh giải. Cho đến khi nàng được giải oan thì cũng là lúc nàng quyết định không trở về nữa dù nghĩa vợ chồng vẫn còn quyến luyến, tình mẹ con còn rất thiết tha.
Tuy Trương Sinh đã hiểu được sự tình, lập đàn minh oan cho nàng nhưng trong lòng Trương Sinh nghiệp chướng chưa được giải trừ, tính hoài nghi, lòng ghen tuông, sự tàn bạo, ích kỉ vẫn chưa được trút bỏ. Trần gian đã không còn chốn cho nàng nương thân. Không lúc này thì lúc khác, không bi kịch này thì cũng là bi kịch khác nhất định sẽ đổ lên số phận của nàng.
Hình tượng nhân vật Vũ Nương chính là hiện thân của tấm lòng vị tha, của vẻ đẹp của người phụ nữ. Song cuộc đời nàng lại có quá nhiều nỗi đớn đau, bất hạnh. Ngòi bút của Nguyễn Dữ đã hướng đến thể hiện và trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp ấy và bày tỏ sự cảm thông sâu sắc đối với nỗi đau khổ và ước mơ về một cuộc sống tươi đẹp cho những con người bình thường, có phẩm chất tốt đẹp. Thiên truyện còn là lời tố cáo mạnh mẽ chế độ phong kiến hà khắc, cửa quyền, nhẫn tâm đẩy con người vào bước đường cùng không lối thoát.
Tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” là một truyện hay trong thiên cổ kì bút “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ. Truyện được viết trên cơ sở của một truyện dân gian, phản ánh một vấn đề bức thiết trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ đó chính là thân phận và bi kịch của người phụ nữ trong xã hội cũ. Thế lực phong kiến bạo tàn đã chà đạp lên nhân phẩm của người phụ nữ, mặc cho họ là những người có phẩm chất, đức hạnh rất đáng trân trọng.
Truyện kể về cuộc đời và số phận của Vũ Nương, một người con gái có nhan sắc lại có đức hạnh. Chồng nàng là Trương Sinh, con nhà giàu nhưng ít học, lấy nàng chỉ vì mến dung nhan chứ không vì tình yêu, để rồi giữa họ không có sự chan hòa, bình đẳng. Mầm mống ngọn nguồn bi kịch của cuộc đời Vũ Nương đã bắt đầu từ đây. Mặc dù chồng là người lạnh lùng, khô khan và ích kỉ nhưng Vũ Nương vẫn luôn yên phận, đảm đang, tháo vát và thủy chung. Nàng khao khát hạnh phúc gia đình và đặt hạnh phúc gia đình lên trên danh lợi, quyền quý. Khi chồng phải đi tòng quân nàng chỉ có niềm mong ước giản dị là chồng sẽ bình yên trở về. Đó là một tình cảm tiêu biểu của những người vợ hiền dành cho chồng trước lúc đi xa.
Trong suốt thời gian xa chồng, Vũ Nương là người con dâu hiếu thảo, là người mẹ hiền một mình chăm sóc con thơ. Khi mẹ chồng mất cũng một mình nàng lo ma chay tế lễ hết sức chu đáo. Khi giặc tan Trương Sinh trở về, vì hồ đồ tin vào lời con trẻ mà nghĩ vợ hư hỏng, đuổi đánh Vũ Nương, khiến nàng đau đớn, tủi nhục phải tự tử trên bến Hoàng Giang. Nỗi oan khúc của Vũ Nương đã vượt qua giới hạn gia đình, nằm trong muôn vàn nỗi oan khốc bị xã hội phong kiến vùi dập. Thân phận người phụ nữ bị chà đạp, vùi dập và sỉ nhục, đày đọa tới cùng cực, tới bước đường cùng của cuộc đời. Vũ Nương sau khi đã chết, tuy được chồng làm lễ giải oan cho nhưng hạnh phúc không thể tìm lại được.
Sự dứt áo ra đi của nàng là một thái độ phủ định với dương thế, với xã hội bất công. Đây cũng là thái độ đấu tranh đòi công lý của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến suy tàn. Dù cái chết là một tấn bi kịch của người phụ nữ, nhưng họ đã thức tỉnh được tầng lớp phong kiến, phụ quyền. Qua câu chuyện về cuộc đời và số phận bi thảm của Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã tố cáo xã hội phong kiến đương thời đã chà đạp lên nhân phẩm của người phụ nữ, tố cáo chiến tranh phi nghĩa làm cho hạnh phúc gia đình, tình cảm vợ chồng tan vỡ. Phải chăng người phụ nữ trong xã hội phong kiến ấy luôn bị chà đạp dù có tài năng và phẩm chất cao đẹp:
Phận đàn bà ấy đau đớn, bạc mệnh và tủi nhục không kể xiết, lễ giáo phong kiến là sợi dây oan nghiệt trói chặt người phụ nữ, giam cầm họ trong những đau khổ, khiến họ luôn phải tìm đến cái chết để bảo vệ nhân phẩm của mình.
Tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” đã cho người đọc thấy được thân phận và bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa, đồng thời thông qua đó đề cao giá trị của người phụ nữ.
Trong xã hội phong kiến xưa, thân phận người phụ nữ vô cùng nhỏ bé, bọt bèo. Không chỉ nhỏ bé về thân phận mà còn chịu nhiều bất công, chèn ép của định kiến xã hội phong kiến đương thời. Viết về đề tài này, Nguyễn Dữ trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” đã lột tả sâu sắc được nỗi bất hạnh mang tính bi kịch ấy của người phụ nữ thông qua nhân vật Vũ Nương.
Bi kịch của Vũ Nương trước hết có ngọn nguồn từ những cuộc chiến tranh phong kiến phi nghĩa. Vì chiến tranh mà con phải xa cha, vợ cách biệt chồng. Mọi hiểu lầm dẫn đến bi kịch sau này của Vũ Nương đều bắt nguồn từ đây. Đời làm vợ được sống bên chồng của Vũ Nương thật ngắn ngủi: “sum họp chưa thỏa… đã chia phôi vì động việc lửa binh”. Trương Sinh ra trận, nàng phải sống trong cảnh “vợ trẻ xa chồng”, “mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”…
Ở nhà, nàng vừa khắc khoải nhớ thương, vừa lo làm lụng sớm khuya nuôi con, nuôi mẹ. Gánh nặng gia đình bao nhiêu gian nan, vất vả trút cả lên vai. Mẹ già yếu, ốm đau rồi mất. Con thơ bé dại. Vũ Nương một thân một mình chẳng ai đỡ đần sẻ chia trăm công nghìn việc.
Trong xã hội nam quyền mang tính chất gia trưởng của xã hội phong kiến xưa đã dung túng, tiếp tay cho hành động tăm tối, mù quáng của Trương Sinh; cho Trương Sinh được quyền kết tội vợ mà không cần giải thích lí do, mắng nhiếc, đánh đập, xua đuổi, dồn đẩy vợ đến chỗ phải quyên sinh mà vẫn vô can.
Sau ba năm chờ đợi, Trương Sinh trở về, nhưng oái oăm thay, lúc chàng Trương trở về cũng là lúc Vũ Nương phải vĩnh viễn rời xa tổ ấm. Trớ trêu hơn, cái bóng biểu tượng của tình vợ chồng gắn bó, để nguôi nỗi nhớ cha của con, nhớ chồng của vợ. Vậy mà Trương Sinh lại hồ đồ, đa nghi, một mực khẳng định đó là bằng chứng hư hỏng của vợ.
Trương Sinh nghe lời con thơ về người cha bí ẩn “đêm nào cũng đến” thì từ chỗ nghi ngờ chuyển sang khẳng định “đinh ninh là vợ hư”. Còn gì đau đớn hơn, còn gì đau đớn bằng khi chính người chồng mình rất mực yêu thương nghi ngờ, ruồng rẫy. Vũ Nương bị kết tội thất tiết mà không được giải thích lí do, oan ức mà không thể thanh minh.
Trương Sinh đối với nàng ngày càng lạnh lùng, tàn nhẫn: mắng nhiếc, đánh đập, xua đuổi. Bị bôi nhọ danh dự, bị đày đọa tinh thần, bị chà đạp thể xác, cuối cùng không còn đường nào khác, bị tước đoạt quyền sống, Vũ Nương đã phải tìm đến cái chết.
Không thể minh chứng sự trong sạch của bản thân, quá tuyệt vọng, Vũ Nương đã tìm đến dòng Hoàng Giang để rửa sạch mọi oan khuất: “thần sông có linh, xin ngài chứng giám”.
Bi kịch của Vũ Nương còn được thể hiện ở chi tiết kì ảo cuối truyện. Dù được Linh Phi cứu giúp, nhờ Phan Lang mà Vũ Nương được về gặp chồng một lần trên bến Hoàng Giang nhưng nàng cũng chỉ có thể hiện về và nói vọng vào từ giữa dòng sông những lời nghẹn ngào, chua xót: “Thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Ước ao trở về mà chẳng thể trở về, khát khao hạnh phúc mà không thể nào có được hạnh phúc – Đó phải chăng là bi kịch đau đớn nhất của Vũ Nương, cũng là đau đớn nhất của kiếp người?
Như vậy, Vũ Nương là một người phụ nữ có nhiều vẻ đẹp đáng quý nhưng cuộc đời khổ đau, bất hạnh. Phẩm giá của nàng là vẻ đẹp điển hình của người phụ nữ Việt Nam truyền thống. Còn cuộc đời nàng trớ trêu, bi thảm lại là số phận chung của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Qua tác phẩm, Nguyễn Dữ thể hiện được một tinh thần nhân đạo sâu sắc, lên án thói ghen tuông mù quáng, chiến tranh phi nghĩa và chế độ nam quyền. Kêu cứu cho quyền sống, quyền hạnh phúc của con người.
“Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong những tác phẩm viết về số phận của người phụ nữ trong xã hội xưa. Qua câu chuyện này, Nguyễn Dữ đã khắc họa chân thực số phận đầy bi kịch của nhân vật Vũ Nương.
Vũ Nương vốn là một người phụ nữ “người đã thùy mị nết na, lại thêm có tư dung tốt đẹp”. Những tưởng con người ấy sẽ có được cuộc sống hạnh phúc nhưng nàng lại gặp phải nhiều bất hạnh. Mà trước hết là bi kịch trong tình yêu. Vũ Nương cũng giống như những người phụ nữ trong xã hội xưa, không được quyền tự quyết định cuộc đời mình. Nàng vì xuất thân trong gia đình nghèo khó, khi được Trương Sinh – con nhà hào phú đến hỏi cưới. Tuy chẳng có tình cảm nhưng vẫn phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ. Cuộc hôn nhân vốn không có tình yêu nay lại thêm không được môn đăng hộ đối.
Nhưng không vì vậy mà Vũ Nương thôi khát khao hạnh phúc. Nàng bước vào cuộc sống hôn nhân với Trương Sinh bằng tấm lòng chân thành. Biết chồng có tính đa nghi lại phòng ngừa vợ quá mức, Vũ Nương luôn giữ gìn khuôn phép để vợ chồng không bất hòa. Chỉ khi chiến tranh xảy ra đã khiến cuộc đời nàng bắt đầu rơi vào bi kịch của sự chia lìa. Trương Sinh phải lên đường ra chiến trường có nghĩa là nàng phải đối mặt lo lắng và thậm chí có thể là mất mát, đau thương. Chiến tranh đã khiến cho cuộc hôn nhân mới vừa bắt đầu đã rơi vào thử thách. Trong suốt những năm chồng nàng đi lính, Vũ Nương là một người phụ nữ nhưng lại gánh vác trách nhiệm của một trụ cột gia đình. Vừa phải dạy dỗ con thơ, vừa phải chăm sóc mẹ chồng. Khi mẹ chồng ốm đau vì nhớ con trai, nàng đã hết lời khuyên bảo. Khi mẹ chồng mất, nàng “hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ; lo liệu như đối với cha mẹ sinh ra”. Với đứa con thơ, vì thương con phải xa cha từ nhỏ, mong muốn con có một gia đình đầy đủ. Người mẹ ấy đã nói dối đứa trẻ cái bóng chính là cha của mình. Như vậy, chiến tranh không chỉ chia cắt hạnh phúc gia đình mà còn khiến Vũ Nương phải gánh vác những trách nhiệm của một người đàn ông.
Bi kịch của nhân vật Vũ Nương không chỉ dừng lại ở đó, đỉnh điểm nhất là sự hiểu lầm của Trương Sinh khi trở về. Những tưởng ngày chồng đi lính về sẽ là ngày gia đình được đoàn tụ. Vũ Nương sẽ được hưởng niềm hạnh phúc bình dị mà nàng hằng mong ước bên chồng, con. Nhưng, hiện thực lại quá tàn khốc. Trương Sinh trở về, nghe tin mẹ già đã mất, hết sức đau lòng, liền bế con ra mộ thăm mẹ. Khi thấy đứa trẻ quấy khóc bèn dỗ dành: “Con nín đi, đừng khóc! Lòng cha đã buồn khổ lắm rồi!”. Đứa bé ngây thơ hỏi cha: “Ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha trước kia chỉ nín thin thít”. Nghe lời đứa con thơ lại sẵn tính đã nghi, chàng cho rằng vợ hư. Khi trở về nhà, Trương Sinh liền mắng nhiếc vợ thậm tệ. Vũ Nương tìm mọi cách giải thích cũng không chồng vẫn không tin. Họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng cũng chẳng ăn thua gì cả. Đến cuối cùng, nàng bất đắc dĩ nói: “Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng, vì có cái thú vui nghi gia nghi thất, có sự yên ổn được tựa bóng cây cao. Đâu ngờ ân tình tựa lá, gièm báng nên non. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa gãy cuống, kêu xuân cái én lìa màn, nước thẳm buồm xa, đâu còn thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa”. Câu nói thốt ra như một lời tự xót xa cho chính thân phận mình. Để rồi sau đó, Vũ Nương phải tìm đến cái chết để chứng minh cho sự trong sạch của bản thân.
Chết đi nhưng vẫn còn đó nỗi oan khuất. Chỉ đến một đêm, Trương Sinh bế con liền thấy đứa trẻ gieo lên: “Cha Đản lại đến kìa”. Hỏi ra mới biết những lúc mình không có ở nhà, vợ thường chỉ vào chiếc bóng của mình và nói đấy là cha Đản. Lúc này, hối hận cũng không còn kịp. Sau khi nghe lời giải thích của Phan Lang, Trương Sinh liền bèn lập đàn giải oan cho vợ. Vũ Nương tuy được chồng lập đàn giải oan và còn hiện về thăm chồng con. Nhưng nàng vẫn không thể tiếp tục cuộc sống nơi trần thế. Chẳng còn gì bi kịch hơn khi khát khao được sống lại không thể tiếp tục sống.
Qua nhưng bi kịch của Vũ Nương, nhà văn muốn tố cáo chiến tranh cũng như xã hội phong kiến đương thời đã tước đoạt đi quyền sống, quyền hạnh phúc của người phụ nữ. Cũng như thể hiện niềm cảm thông sâu sắc cho số phận của người phụ nữ xưa.
Nguyễn Dữ là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam thế kỉ XVI. Tác phẩm “Truyền kì mạn lục” của ông vô cùng nổi tiếng khi viết về những người phụ nữ bất hạnh, khao khát hạnh phúc nhưng bị các thế lực bạo tàn và cả lễ giáo khắc nghiệt xô đẩy vào hoàn cảnh éo le, oan khuất và bất hạnh. Một trong những truyện tiêu biểu thuộc “Truyền kì mạn lục” đó là “Chuyện người con gái Nam Xương”. Truyện đã khắc họa thành công cuộc đời bi kịch của nhân vật Vũ Nương – một người phụ nữ xinh đẹp nhưng bạc mệnh.
Phải chăng số phận chung của những người phụ nữ trong xã hội xưa đều giống như câu thơ mà Nguyễn Du viết:
Khi đọc tác phẩm này, ta thấy nhân vật Vũ Nương cũng là một nhân vật có cuộc đời bi kịch.
Như vậy, qua những bi kịch mà nhà văn đã xây dựng cho nhân vật của mình, ông muốn gửi gắm những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Đó là số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội xưa. Cũng như niềm cảm thông cho cuộc đời của họ, lời lên án tố cáo chiến tranh, xã hội phong kiến đã cướp đi hạnh phúc của con người.
Cuộc đời của Vũ Nương cũng giống như biết bao người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Qua đó, người đọc thế hệ hôm nay sẽ thêm yêu thương và trân trọng hơn những người phụ nữ ở xung quanh.
Trương Sinh – Vũ Nương và cuộc hôn nhân không có tình yêu. Câu chuyện bắt đầu từ cuộc hôn nhân của Vũ Thị Thiết, “người con gái quê ở Nam Xương, tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp. Trong làng, có chàng Trương Sinh, mến vì dung hạnh, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về”. Cuộc hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh (cũng như bao nhiêu cặp vợ chồng khác trong xã hội phong kiến) là không xuất phát từ tình yêu. Với Vũ Nương, nàng đã được cha mẹ gả bán. Chớ trách nàng ham giàu, cũng đừng trách nàng sống dựa dẫm, bởi “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, nàng làm gì được có ý kiến, lại càng không được quyết định việc hôn nhân của mình.
Đó là bi kịch đầu tiên của đời Vũ Nương mà chế độ phong kiến Việt Nam vốn lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng chính thống, với tôn ti trật tự nghiêm ngặt đã tước mất quyền được chọn chồng của người phụ nữ.
Dù hôn nhân không phải trên cơ sở tình yêu, người chồng Trương Sinh đã “không có học” lại “có tính đa nghi”, nhưng là người “thùy mị, nết na”, ắt nàng hiểu được bổn phận làm dâu, làm vợ, nên đã giữ gìn khuôn phép để không từng lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa.
Phụ nữ ngày xưa sống theo bổn phận. Vũ Nương đã cố gắng hết sức để làm tròn bổn phận đó. Bổn phận hàng đầu của người con (mà dâu cũng là con), đó là hiếu thảo. Hoàn cảnh đã thử thách và minh chứng lòng hiếu của nàng. Chồng đi lính, Vũ Nương dẫu một mình nuôi con nhỏ nhưng đã hết lòng khuyên lơn, chăm sóc, thuốc thang, phụng dưỡng mẹ chồng khi bà ấy đau yếu; và khi mẹ chồng mất, nàng hết lời thương xót, ma chay tế lễ chu đáo như đối với cha mẹ đẻ của mình. Mẹ chồng chứng kiến và trời xanh kia chứng giám cho lòng hiếu của nàng. Chừng đó đã đủ cho nàng thành gương sáng của đạo hiếu.
Bổn phận hàng đầu của người vợ là chung thủy, tiết hạnh. Hoàn cảnh đã thử thách và minh chứng lòng chung thủy, tiết hạnh của nàng. Chồng nàng đi lính gần 3 năm. Nàng đang ở tuổi xuân, vợ chồng “sum họp chưa thỏa tình chăn gối”, khi chàng Trương ra đi nàng đang mang thai sắp ngày sinh nở, những ngày vắng chồng hẳn vô cùng khao khát tình chồng vợ. Nhưng nàng đã “giữ gìn một tiết”, “ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”.
Không chỉ sống tròn bổn phận, mà nàng còn thực sự yêu thương chồng. Ngay trong buổi tiễn đưa chồng, dù chàng Trương chưa xa, mới chỉ sắp xa mà nàng đã nói những lời tràn đầy yêu thương, nhung nhớ khiến cho “mọi người đều ứa hai hàng lệ”. Trong những đêm xa chồng, cuộc sống của nàng và con thơ cô quạnh, nỗi nhớ càng đốt cháy tâm can, “nàng thường hay đùa với con, trỏ bóng mình trên vách mà bảo là cha Đản”. Chỉ là để trả lời câu hỏi ngây thơ của con, cũng để cho vơi nỗi nhớ, chứ đâu phải nàng sống ảo như ai đó đã phê phán nàng. Trò trỏ bóng trên vách này, xưa kia các nhà dùng đèn đầu (khi chưa có điện) vẫn thường làm.
Nàng làm sao lường trước được hậu quả giáng xuống nàng và gia đình bé nhỏ của nàng do trò đùa đó. Chỉ có chúng ta, người đời sau, được đọc câu chuyện về nàng mới biết trò đùa đó đã là nguyên nhân gián tiếp đẩy nàng đến chỗ chết.
Chúng ta đều biết nàng tự giết cuộc đời mình, nàng tự chọn cái chết. Và đó là thứ đầu tiên và có lẽ duy nhất trong cuộc đời ngắn ngủi của mình nàng được tự chọn. Đành rằng, cái chết đó, có lẽ khiến nhiều người thương cảm (nhân dân đã lập miếu thờ nàng, ông vua thi sĩ Lê Thánh Tông khi qua đây đã làm thơ viếng nàng), và có người chê trách, thậm chí phê phán nàng ích kỷ, vô cảm.
Khác với truyện cổ tích Vợ chàng Trương, khi bị chồng la mắng, đánh và đuổi đi, Vũ Nương chạy một mạch ra bến Hoàng Giang gieo mình xuống sông tự vẫn; ở Chuyện người con gái Nam Xương, Nguyễn Dữ đã để cho nàng nói mấy lời đau buồn có ý nghĩa từ biệt, tắm gội chay sạch rồi mới ra bến Hoàng Giang. Như vậy là nàng đến với cái chết không phải do nóng giận mất khôn mà đó là sự lựa chọn của nàng sau khi đã suy nghĩ kỹ.
Bởi, nàng đã không có lựa chọn nào khác. Nàng thanh minh bằng những lời tha thiết, Trương Sinh đã không tin. “Họ hàng, làng xóm bênh vực, biện bạch cho nàng cũng chẳng ăn thua gì cả”. Mẹ chồng, người hiểu và biết ơn nàng thì đã chết. Con trai nàng, đau đớn thay, sự thật thà và ngây thơ của nó lại chính là nguyên do gây nên cơn ghen mà bất cứ người đàn ông xa nhà nào cũng có thể mắc phải chứ không chỉ Trương Sinh. Đáng tiếc là “nàng đã hỏi chuyện do ai nói thì Trương Sinh đã giấu không kể lời con nói, chỉ lấy chuyện bóng gió mắng nhiếc nàng”.
Nàng nương tựa chàng Trương, như lời nàng nói lúc từ biệt là vì thú vui nghi gia nghi thất. Nàng coi trọng con người Trương Sinh nên dặn chàng tránh mũi tên hòn đạn, cũng không mong mang hai chữ phong hầu mặc áo gấm trở về, mà chỉ cần hai chữ bình yên. Vậy mà, giờ đây, ngay ngày đầu chàng Trương trở về, nàng thấy cuộc hôn nhân mà nàng đã cố gắng đến mức cao nhất để gìn giữ đã tan vỡ, không còn cách cứu vãn.
Chồng nàng đã mắng chửi và đánh rồi đuổi nàng đi. Nàng đi đâu? Không thể trở về nhà cha mẹ bởi thời xưa quan niệm con gái đã lấy chồng bị chồng đuổi mà trở về là mang tiếng nhục cho gia đình. Nàng bị chồng cho là thất tiết, đó là tội lớn nhất của người đàn bà, người làm vợ. Thanh danh của nàng đã không còn. Vũ Nương đành lựa chọn, một sự lựa chọn đau đớn, đó là nàng phải chết để bày tỏ nỗi oan khiên, để minh chứng sự trong sạch của mình.
Bản năng con người là ham sống. Hẳn Vũ Nương đã rất tha thiết với cuộc sống. Nàng đang ở tuổi thanh xuân, lại càng không muốn chết. Khi lựa chọn chết chứ không tiếp tục sống trong sự nghi ngờ, phải mang tiếng là thất tiết, chứng tỏ nàng coi danh dự, phẩm giá cao hơn cả sự sống. Vì danh dự nàng hy sinh sự sống mà mỗi người chỉ có được một lần.
Câu chuyện cổ tích Vợ chàng Trương kết thúc ngay khi cuộc sống của nàng kết thúc. Nhưng với Chuyện người con gái Nam Xương, nhà văn Nguyễn Dữ đã sáng tạo tiếp. Ứng với lời nguyền, Vũ Nương khi gieo mình xuống dòng Hoàng Giang đã không bị làm mồi cho cá tôm mà đã được Linh Phi – vợ vua Nam Hải cứu đưa vào động, thành cung nữ.
Phần sáng tạo có tính hoang đường ấy ngoài việc tăng hấp dẫn cho câu chuyện, còn chuyển tải được ý đồ của nhà văn về cái gọi là kết thúc có hậu. Dẫu sao thì nàng đã được minh oan, không chỉ riêng chàng Trương thấu nỗi oan của vợ, mà quan trọng hơn là mọi người cũng biết được điều đó qua việc Trương Sinh lập đàn tràng suốt ba ngày ba đêm bên bến Hoàng Giang.
Thực ra đó là một lý do quan trọng để nàng còn tiếp tục “sống” ở dưới thủy cung. Nỗi oan chưa được giải, nàng chưa “chết” được. Cho nên khi gặp Phan Lang, nàng nhắn gửi với chàng Trương lập đàn giải oan cho nàng. Oan được giải, nàng bấy giờ mới thanh thản sang cõi khác.
Việc Vũ Nương phải chết giữa tuổi thanh xuân mà nguyên nhân từ chuyện ghen tuông, từ bi kịch gia đình thực ra thời nào cũng có. Song với Chuyện người con gái Nam Xương và truyện nữa trong Truyền kỳ mạn lục là Người nghĩa phụ ở Khoái Châu, câu chuyện kể về nàng Nhị Khanh bị chồng gá bạc nhục nhã tìm đến cái chết để giải thoát, Nguyễn Dữ muốn gióng lên hồi chuông cảnh báo về thân phận con người, đặc biệt là người phụ nữ thời ông sống phải chịu nhiều bất công, phải chịu sự nghiệt ngã của số phận.
(“Truyện Kiều” – Nguyễn Du)
Xuyên suốt chiều dài của triền đê mang tên “Văn học”, ta bắt gặp hình ảnh người phụ nữ dẫu có “quốc sắc thiên hương” đến đâu, có phẩm hạnh hoàn mỹ và tài năng hơn người đi chăng nữa thì số kiếp và hạnh phúc của họ vẫn bị vùi dập tả tơi bởi những định kiến của một xã hội hoen ố và mục ruỗng, những tục lệ “trọng nam khinh nữ”. Bằng ngòi bút mang cái “hồn” của riêng mình, Nguyễn Dữ đã khiến trái tim người đọc muôn đời không khỏi tiếc thương khi nhớ về số phận bi ai của Vũ Nương.
Từ thế kỷ XVI, chế độ phong kiến Việt Nam đã bắt đầu có những biểu hiện suy thoái, Nguyễn Dữ bất mãn và bất lực trước thời cuộc, chán ghét cảnh quan trường điên đảo nên lui về ở ẩn. Theo Nguyễn Đăng Na nhận xét: “Ông là cha đẻ của loại hình truyền kì Việt Nam”, là người “phóng thành công con tàu văn xuôi tự sự vào quỹ đạo văn chương nghệ thuật”. “Chuyện người con gái Nam Xương” là câu chuyện thứ 16 của “Truyền kì mạn lục”. Từ một sự tình có thật trong dân gian, Nguyễn Dữ đã thể hiện thật tài tình, trọn vẹn vẻ đẹp của Vũ Nương. Nàng thật sự là một người phụ nữ hoàn mỹ, đẹp người đẹp nết, làm tròn bổn người vợ, người mẹ và nàng dâu thảo. Vũ Nương là khuôn vàng, thước ngọc của người phụ nữ, nàng xứng đáng sống trong hạnh phúc và vui vẻ. Thế nhưng “Hạnh phúc trong cuộc đời Vũ Thị Thiết là một thứ hạnh phúc vô cùng mong manh, ngắn ngủi. Mong manh như sương như khói, ngắn ngủi như kiếp sống của đoá phù dung sớm nở, tối tàn.”. (Đồng Thị Sáo).
Advertisement
Vũ Nương phải gánh chịu nỗi dày vò cả về thể xác lẫn tinh thần. Trước cảnh đất nước binh đao loạn lạc, phu quân phải đi đến nơi biên ải xa xôi, cả giang sơn nhà chồng đè nặng trên đôi vai nhỏ bé của người thiếu phụ. Ta có thể cảm nhận được nỗi vất vả của nàng qua những vần điệu ca dao cổ:
Nàng thầm lặng mà sinh con ra, rồi lại một mình tần tảo nuôi nấng, dạy dỗ con thơ. Biết mẹ chồng đau ốm vì nhớ thương con, nàng tận tâm tận tụy chăm sóc, “hết sức thuốc thang, lễ bái và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Khi mẹ chồng vĩnh biệt thế gian nàng cũng hết lòng xót thương, lo liệu ma chay tế lễ như đối với cha mẹ ruột. Một mình Vũ Nương đảm đương tất cả, nàng vừa là mẹ, là dâu con. Nàng lo toan mọi việc lớn nhỏ như “một đấng nam nhi” duy nhất trong gia đình. Những ngày sống trong cảnh “chăn đơn gối chiếc”, sự cô đơn, lẻ loi cùng nỗi nhớ kéo dài theo năm tháng cứ cứa từng vết khiến trái tim nàng rỉ máu. Nàng khắc khoải nhớ nhung Trương Sinh “thổn thức tâm tình thương người đất thú”. Vũ Nương ngày ngày đợi chờ, ngóng trông đến thổn thức. Hình ảnh “bướm lượn đầy vườn” vốn gợi cho ta một khung cảnh đẹp, cũng rất mơ hồ hay “mây che kín núi” thơ mộng nhưng cũng man mác. Giống như tâm trạng của nàng bấy giờ, lệ sầu phủ kín tâm can, nỗi buồn “không thể nào ngăn được”. Quả là lấy cảnh mà lột tả được cái tình của con người. Nỗi nhớ triền miên của người thiếu phụ cũng được nhắc đến trong thi phẩm “Chinh Phụ Ngâm” – Đoàn Thị Điểm:
Vì thương con, lo cho con thiếu thốn hình bóng người cha và cũng để nàng gửi gắm nỗi nhớ thương, mong mỏi chồng, Vũ Nương đã nghĩ ra trò cái bóng.Đêm đêm, nàng thường trỏ bóng mình trên vách và nói với con đó là cha của bé. Chiếc bóng chính là hiện thân của sự cô đơn của Vũ Nương. Cùng với chiếc bóng của mình trên vách, Vũ Nương vừa làm mẹ, vừa làm cha. Và mối oan của Vũ Nương được buộc bởi chính hành động của nàng mỗi ngày, bởi lời của đứa con đứt ruột đẻ ra và bởi sự tàn nhẫn của người chồng đầu gối tay ấp. Nàng rơi vào bi kịch bởi chính cái bóng của mình, hạnh phúc bao lâu nay luôn cố gắng vun đắp, “giữ gìn khuôn phép” đã tan vỡ không thể cứu vãn. Hạnh phúc với người phụ nữ thật mong manh, ngắn ngủi, luôn có những những bất trắc, rủi ro, nghịch lý vận vào cuộc đời họ, đẩy họ tới bước đường cùng.
Vũ Nương phải chịu sự ràng buộc của lễ giáo khắt khe, ngặt nghèo, chấp nhận cuộc hôn nhân với Trương Sinh. Nàng đã có quyền lựa chọn đâu khi xã hội phong kiến vẫn có đó tư tưởng “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”. Trương Sinh lấy Vũ Nương không phải vì tình yêu mà chỉ vì cảm mến dung hạnh, để rồi không có sự chan hòa, bình đẳng trong cuộc hôn nhân đó. Chàng xin mẹ trăm lạng vàng để cưới nàng bởi thế đồng tiền đã phát huy uy lực của nó khiến Vũ Nương luôn sống trong mặc cảm “con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”. Nàng là người con gái hiền lành, chất phác, cưới chàng Trương, nàng không hề mong danh lợi hay vinh hoa, phú quý mà chỉ vì một mong ước rất bình thường mà người phụ nữ nào cũng muốn “thú vui nghi gia, nghi thất”. Mặc dù sống với người chồng lạnh lùng, lại đa nghi quá mức nhưng vì khát khao hạnh phúc gia đình, mong muốn êm ấm thuận hòa nên nàng luôn giữ gìn khuôn phép, ăn nói chừng mực vì thế mà vợ chồng chẳng khi nào bất hòa. Vũ Nương sống trong một cuộc hôn nhân không chứa chan ái tình và cũng chẳng có âm hưởng của sự rung động cất lên từ hai trái tim chân thành. Chính bức tường vô hình mang tên “giàu – nghèo” đã đàn áp quyền lợi của người phụ nữ và là cái thế để Trương Sinh mặc nhiên đối xử vũ phu, tàn bạo với nàng.
Trở về sau ba năm cách biệt, ngỡ đâu vị thần hạnh phúc sẽ gõ cửa gia đình nàng. Thế nhưng, chính vì thói đa nghi và ghen tuông che mờ lí trí, Trương Sinh mù quáng tin vào những lời nói ngây thơ của bé Đản mà đinh ninh phán cho Vũ Nương cái danh “vợ hư”. Trương Sinh bỏ ngoài tai những lời khuyên can của mọi người và cũng chẳng thèm đếm xỉa tới lời biện bạch của nàng. Rồi từ chỗ “la um lên cho hả giận”, chàng đã nhẫn tâm mắng nhiếc và đánh đuổi vợ đi. Phải chăng xã hội phong kiến với chế độ nam quyền độc đoán, bất công và tàn bạo, với thói “trọng nam khinh nữ” bám chặt vào huyết quản đã dung túng cho phép người người đàn ông được quyền coi thường, rẻ rúng, mặc nhiên định đoạn thậm chí giẫm đạp lên quyền sinh, quyền tử và phẩm giá cao quý của người vợ. Vũ Nương đức hạnh, ngoan hiền vậy mà lại phải mang bản án ô nhục, nhuốc nhơ “hư thân mất nết”. Thuở xưa, nàng Thị Kính còn biết ngọn nguồn nỗi oan khuất của mình. Còn Vũ Nương, đến khi gieo mình xuống đáy sông nàng vẫn chẳng hiểu vì sao lại bị người từng đầu ấp tay gối với mình mắng nhiếc và đánh đuổi đi. Nỗi oan của nàng thấu tận trời xanh vậy mà nàng cũng chẳng được quyền phản kháng, bảo vệ chính mình.
Với Vũ Nương, “cái thú vui nghi gia nghi thất” chính là lí tưởng, mục đích sống và tồn tại của nàng. Để rồi khi điểm tựa ấy bị vùi dập tả tơi bởi nỗi oan thất tiết “Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió, khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồn xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.”. Với hàng loạt những hình ảnh ước lệ ngụ ý chỉ sự lụi tàn, thê lương của mối nhân duyên đổ vỡ đã lột tả thành công nỗi thất vọng, ê chề, đau đáu xâm chiếm cõi lòng của nàng. Vũ Nương quyết định trầm mình xuống sông Hoàng Giang để rửa sạch nỗi oan khuất, giải bày tấm lòng ngay thẳng, tấm thân trinh bạch của mình. Cái chết của Vũ Nương thực chất là do bị chồng bức tử vậy mà Trương Sinh cũng chẳng một chút động lòng hay ân hận, day dứt. Hãn hữu lắm trong cái xã hội ấy, một hành lang đạo lí hay một ai đó đứng ra bảo vệ, chở che cho thân phận bèo dạt mây trôi của Vũ Nương nói riêng và những người phụ nữ trong xã hội phong kiến nói chung. Rõ ràng chính xã hội cũ đã sinh ra bao Trương Sinh với thói độc đoán là nguyên nhân của những khổ đau mà người phụ nữ phải gánh chịu.
Nỗi oan khuất tột cùng của Vũ Nương đã vượt ra ngoài phạm vi gia đình, là một trong muôn vàn oan khốc trong xã hội phong kiến vùi dập con người, nhất là người phụ nữ. Có lẽ bi kịch của Vũ Nương không phải là trường hợp cá biệt mà khủng khiếp thay là số phận của bao chị em phụ nữ, là kết quả của bao nhiêu nguyên nhân mà chế độ phong kiến đã sản sinh ra làm số phận của họ thật bi đát. Từ những kiếp đời bạc mệnh ấy Nguyễn Dữ đã góp phần khái quát nên thành lời kiếp đau khổ của người phụ nữ. Thân phận của người phụ nữ bị vùi dập, bị sỉ nhục, bị đày đến bước đường cùng của cuộc đời, họ chỉ biết tìm đến cái chết để bày tỏ tấm lòng trong sạch. Điều này chứng tỏ xã hội phong kiến suy tàn đã sinh ra những Trương Sinh đầu óc nam quyền, độc đoán, sống thiếu tình thương đối với người vợ hiền thục của mình, để rồi gây ra cái chết bi thương đầy oan trái cho Vũ Nương.Đớn đau thay số phận của nàng Tấm bi kịch về cái đẹp bị chà nát phũ phàng. Và người đời sẽ lưu truyền thêm một tấm bi kịch về số phận người phụ nữ. Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến cũng đều giống như Vũ Nương. Số phận của họ như đã được định đoạt từ trước. Sinh ra mang kiếp đàn bà thì dù giàu nghèo sang hèn không trừ một ai, lời “bạc mệnh” cũng đã trở thành “lời chung” – như Nguyễn Du đã viết trong Truyện Kiều:
Vũ Nương còn là nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa, “sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh”. Chiến tranh loạn lạc đã đẩy gia đình nàng vào cảnh li tán, vợ chồng xa cách đôi người hai ngả. Ngày qua ngày, niềm tin dành cho nhau cứ thế mà kiệt quệ, dẫn đến hiểu lầm. Có lẽ, trận chiến chính là cửa ải thử thách tình yêu và niềm tin của Trương Sinh dành cho vợ. Và chàng đã thất bại, mù quáng nghĩ oan và vu khống cho Vũ Nương. Rõ ràng, chiến tranh phong kiến chính là ngòi nổ tiếp tay cho những bi kịch, giông bão trong cuộc đời người phụ nữ bất hạnh ấy.
Ở phần sau của câu chuyện, ta thấy Vũ Nương được sống sung sướng dưới Thủy cung. Nhưng làm sao có thể hưởng thụ hạnh phúc cho được khi quyền làm mẹ,làm vợ của nàng vĩnh viễn không còn? Chốn “làng mây cung nước” nàng được sống một cuộc đời bất tử và sung mãn, một cuộc đời mà biết bao người trần mắt thịt mong ước. Thế nhưng, Vũ Nương chẳng hề tận hưởng kiếp sống ấy và nàng cũng chẳng thể chạm tay đến thứ hạnh phúc thật sự. Bởi nàng “bất tử” nên nỗi nhớ gia đình cứ đeo đẳng nàng mãi. Nỗi đau đáu ấy trở thành một vết sẹo trong tim nàng mà chẳng có một hào nhoáng xa hoa nào có thể chữa khỏi. Bên cạnh đó, sự trở về của Vũ Nương trên sông Hoàng Giang rất lộng lẫy nhưng lại ở rất xa, rất mơ hồ “lúc ẩn lúc hiện” và “chỉ trong phút chốc”. Cảnh đoàn tụ chỉ là ảo ảnh nhanh chóng tan biến. Còn việc Vũ Nương “chẳng thể trở về nhân gian được nữa”, nỗi khổ đau li biệt cho cả gia đình nàng, lứa đôi chia lìa hai cõi âm – dương là sự thật, là mãi mãi. Hạnh phúc bị tan vỡ khó lòng hàn gắn lại được. Kết thúc câu chuyện bi đát này là một khoảng vắng mênh mông, mờ mịt…Với kết thúc không trọn vẹn, Nguyễn Dữ đã cho thấy một quan niệm rằng hạnh phúc khó có, khó giữ mà đã đổ vỡ rồi thì sẽ chẳng thể nào hàn gắn lại được, như bát nước đã đổ đi thì chẳng thể vớt lại cho đầy.
Khép lại những trang viết thăng trầm của “Chuyện người con gái Nam Xương”, ta không khỏi thán phục trước những đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm. Tác giả xây dựng tình huống truyện bất ngờ là lời nói ngây thơ của bé Đản, hình ảnh “chiếc bóng” vô tri vô giác đã đẩy đưa số kiếp của Vũ Nương rơi vào vực sâu bi kịch, gia đình chịu cảnh chia lìa tang thương.Tác phẩm không kể lại chuyện đời một cách khô khan và cứng nhắc mà là sự chung hòa giữa tự sự và trữ tình kết hợp với những yếu tố kì ảo hoang đường. Đây là cách thức kể chuyện độc đáo, dẫn lối người đọc dấn thân vào các tình tiết.
“Chuyện người con gái Nam Xương” thấm đẫm giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Qua số phận và cuộc đời của Vũ Nương, tác giả đã phản ánh kiếp sống bi thương của những người phụ nữ trong xã hội cũ. Đồng thời, tác phẩm còn là tiếng kêu đanh thép lên án chế độ phong kiến với thói trọng nam khinh nữ, chồng chúa vợ tôi đầy bất công. Truyện còn tố cáo chiến tranh loạn lạc, phi nghĩa gây ra bao đau thương, tan vỡ cho những mái ấm gia đình. Truyện đã cho ta thấy cái tài cái tâm của người nghệ sĩ, niềm cảm thương sâu sắc của tác giả trước những phận đời “hồng nhan đa truân”, quẩn quanh trong bi kịch nối tiếp bi kịch.
Văn Mẫu Lớp 9: Cảm Nhận Về Nhân Vật Vũ Nương Trong Chuyện Người Con Gái Nam Xương Dàn Ý &Amp; 20 Bài Văn Mẫu Lớp 9 Hay Nhất (Sơ Đồ Tư Duy)
Mặc dù câu chuyện đã khép lại nhưng tấm bi kịch về cuộc đời của nhân vật Vũ Nương đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Qua đó, cũng cho chúng ta thấy được những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Mời các em cùng tải miễn phí để ngày càng học tốt môn Văn 9.
Sơ đồ tư duy Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương
Dàn ý cảm nhận về nhân vật Vũ Nương
Đoạn văn cảm nhận nhân vật Vũ Vương
Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương hay nhất (15 mẫu)
Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương
Cảm nhận Vũ Nương hay nhất
Cảm nhận vẻ đẹp nhân vật Vũ Nương
Suy nghĩ về nhân vật Vũ Nương
I. Mở bài
Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Dữ và truyện “Chuyện người con gái Nam Xương”.
Giới thiệu về nhân vật Vũ Nương.
II. Thân bài
1. Tóm tắt lại diễn biến câu chuyện
Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, không chỉ xinh đẹp mà còn có tư dung tốt đẹp.
Điều ấy khiến cho Trương Sinh – một chàng trai trong làng yêu mến, xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Biết chồng là một người hay ghen, nàng luôn giữ gìn khuôn phép nên gia đình luôn hòa thuận.
Vậy mà chồng nàng, sau khi đi lính chỉ vì một lời ngây thơ của con trẻ, chưa làm rõ đầu đuôi câu chuyện đã giở thói ghen tuông. Dù Vũ Nương hết lòng giải thích nhưng vẫn vô dụng.
Nàng quyết định tìm đến cái chết để chứng minh sự trong sạch của mình.
Sau này, khi đã hiểu rõ mọi chuyện, Trương Sinh cảm thấy hối hận thì cũng đã muộn. Chàng cho người lập đàn giải oan thì thấy Vũ Nương hiện về lúc ẩn lúc hiện.
2. Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương
– Vũ Nương là người phụ nữ truyền thống với những phẩm chất tốt đẹp:
Nàng không chỉ xinh đẹp dịu dàng mà tư dung tốt đẹp.
Khi lấy chồng, luôn giữ gìn mực thước nên gia đình luôn giữ được hòa khí.
– Khi chồng đi lính:
Trước lúc chồng lên đường: Rót chén rượu đầy, dặn dò chống bằng lời lẽ ân cần, dịu dàng “Chàng đi chuyến này …đủ rồi”
Trong lúc chồng đi lính: Lo toan việc nhà, chăm sóc mẹ già, dạy dỗ con thơ đều chu đáo.
– Khi bị chồng ngờ vực:
Hết mực giải thích bằng những lời nói nhẹ nhàng: “Thiếp vốn con kẻ khó … nghi oan cho thiếp”.
Biết không thể giải thích được nữa, nàng chọn cái chết để chứng minh tấm lòng của mình.
3. Đánh giá về cuộc đời của Vũ Nương
Không được quyền lựa chọn tình yêu, hôn nhân. Sự bất công đối với người phụ nữ xưa khi họ phải chịu cảnh “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”.
Không được hưởng hạnh phúc trọn vẹn vì chiến tranh. Cuộc sống gia đình chưa được bao lâu thì phải vì chiến tranh mà chia cắt.
III. Kết bài
Khái quát lại về nhân vật Vũ Nương.
Cảm nhận của người viết về nhân vật Vũ Nương: xót xa cho thân phận.
Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” là một người phụ nữ hội tụ tất cả phẩm chất quý báu của phụ nữ truyền thống Việt Nam. Trước hết, Vũ Nương là một người vợ yêu thương chồng hết mực. Khi Trương Sinh đi lính, nàng chỉ mong chồng trở về bình an lành lặn chứ không hè mong tước phong hầu trở về. Khi chồng đi lính, mẹ chồng ở nhà ốm nặng, nàng cũng chăm sóc vô cùng chu đáo. Đến khi mẹ chồng mất nàng lo ma chay tế lễ cẩn thận như đối với chính cha mẹ đẻ mình. Không chỉ là một người vợ yêu chồng, một người con dâu hiếu thảo mà Vũ Nương còn là một người mẹ yêu thương con hết mực. Vì sợ bé Đản không cảm nhận được tình thương của cha mà Vũ Nương đã trỏ bóng mình trên vách và nói đó là cha Đản. Đồng thời, Vũ Nương còn là một người phụ nữ có lòng tự trọng. Khi bị Trương Sinh nghi oan, nàng giải thích hết lời mà chàng không tin, Vũ Nương đã nhảy xuống sông tự vẫn để chúng minh sự trong sạch của mình. Nàng thà chết để được chứng minh trong sạch còn hơn là sống một cuộc đời bị mọi người sỉ vả. Không những thế, Vũ Nương còn là một người phụ nữ giàu lòng vị tha. Khi ở dưới thủy cung nàng vẫn một lòng nhớ về chồng và con mặc dù chính chồng nàng là nguyên nhân gây ra cái chết cho nàng. Khi được Trương Sinh lập đàn giải oan, nàng còn cảm ơn chồng vì đã nghĩ đến nghĩa vợ chồng mà giải oan cho nàng. Qua đây ta thấy được Vũ Nương là một người phụ nữ đẹp người đẹp nết nhưng lại chịu số phận đầy bất hạnh.
Nguyễn Dữ sống ở thế kỷ XVI quê ở huyện Trường Tân nay là Thanh Miện – Hải Dương. Ông là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Các tác phẩm của ông đã đóng góp rất lớn cho nền văn học trung đại Việt Nam. Điển hình là “Truyền kỳ Mạn Lục” gồm có hai mươi câu chuyện nhỏ. Trong đó tiêu biểu là chuyện người con gái Nam Xương là câu chuyện thứ 16 của Truyền Kỳ Mạn Lục, được bắt đầu từ truyện “vợ chàng Trương”. Qua việc xây dựng hình tượng Vũ Nương với đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp nhưng lại chịu nhiều oan khuất, Nguyễn Dữ đã bày tỏ lòng thương cảm với Vũ Nương, với những người có số phận hẩm hiu giống nàng.
Vũ Nương tên thật là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương thuộc phủ Lý Nhân, xuất thân trong một gia đình nghèo khó, vừa có nhan sắc lại có đầy đủ đức hạnh. Vì thế Trương Sinh con nhà hào phú đã xin mẹ trăm lạng vàng để cưới về.
Phẩm hạnh tốt đẹp của Vũ Nương được thể hiện rất rõ trong các mối quan hệ với gia đình. Trong cuộc sống vợ chồng, nàng cư xử rất đúng mực, nhường nhịn, luôn biết giữ gìn khuôn phép cho nên dù chồng đa nghi, đối với vợ phải phòng ngừa quá mức nhưng vợ chồng không bao giờ thất hoà. Như vậy dù cuộc hôn nhân không xuất phát từ tình yêu và có dấu hiệu mua bán nhưng gia đình luôn êm ấm bởi đức hạnh của Vũ Nương. Khi tiễn Trương Sinh đi lính, nàng rót chén rượu đầy dặn dò những lời tình nghĩa đằm thắm thiết tha: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm hoa trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Lời tiễn biệt đó cho thấy nàng không trông mong vinh hiển mà chỉ cầu mong chàng bình yên trở về. Đó là mong ước giản dị, bình thường của người vợ, người phụ nữ luôn mong cuộc sống gia đình sum vầy, hạnh phúc. Không chỉ vậy, nàng còn biết cảm thông trước nỗi vất vả, gian lao mà người chồng phải chịu đựng khi ra chiến trường: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ hiền lo lắng”. Rồi nàng còn nói lên nỗi khắc khoải, nhớ nhung của mình trong những ngày chồng đi xa: “Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú. Dù có thư tín nghìn hàng, cũng không sợ có cánh hồng bay bổng”. Những câu văn biền ngẫu sóng đôi, cân xứng nhịp nhàng như nhịp đập thổn thức của trái tim người vợ trẻ, lời tiễn biệt ân tình thể hiện tình yêu thương chồng và niềm khát khao một mái ấm hạnh phúc. Xa chồng, Vũ Nương không lúc nào không nghĩ đến, không nhớ thương: “Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn nơi góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Tác giả đã dùng những hình ảnh ước lệ, mượn cảnh vật thiên nhiên để diễn tả sự trôi chảy của thời gian. Thời gian trôi qua, không gian cảnh vật thay đổi, mùa xuân tươi vui đi qua, mùa đông ảm đạm lại đến còn lòng người thì dằng dặc một nỗi nhớ mong. Chi tiết nàng chỉ bóng mình trên tường và nói với con rằng “cha Đản lại đến” không chỉ muốn con ghi nhớ bóng hình người cha trong trái tim non nớt của nó, mà còn thể hiện tình cảm của nàng trước sau như một, gắn bó như hình với bóng. Nói với con như vậy để làm vơi đi nỗi nhớ thương chồng. Tâm trạng đó của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người vợ có chồng đi lính trong thời loạn lạc:
Không chỉ là một người vợ thủy chung mà Vũ Nương còn là người con dâu hiếu thảo. Khi chồng đi lính, nàng vẫn còn trẻ nhưng đã phải gánh vác mọi việc trong gia đình chồng. Trong xã hội, mối quan hệ mẹ chồng – nàng dâu rất khó dung hoà vậy mà Vũ Nương vẫn rất yêu quý, chăm sóc mẹ chồng như đối với cha mẹ đẻ của mình. Khi mẹ chồng ốm, nàng “hết sức thuốc thang và lễ bái thần phật, lấy lời ngọt ngào, khôn khéo, khuyên lơn”. Những lời nói dịu dàng, những cử chỉ ân cần của nàng thật đáng trân trọng. Đặc biệt lời trăn trối của bà mẹ chồng trước khi mất: “Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về, mà gượng cơm cháo. Song tuổi thọ có chừng, số trời khó tránh. Đêm tàn chuông đổ, số tận mệnh cùng; một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, không khỏi phải phiền đến con. Chồng con xa xôi, mẹ chết lúc nào, không thể kịp về đền báo được. Sau này trời giúp người lành, ban cho phúc trạch, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, mong sông xanh kia chẳng phụ con cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ” là sự ghi nhận, đánh giá rất cao công lao của Vũ Nương đối với gia đình. Đặt trong xã hội lúc bấy giờ thì đây là lời đánh giá thật xác đáng và khách quan khiến ta cảm nhận được nét đẹp trong phẩm chất của Vũ Nương. Rồi đến khi mẹ chồng mất, nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như cha mẹ ruột. Nàng làm những việc đó không chỉ vì bổn phận và trách nhiệm của người con dâu mà còn xuất phát từ lòng yêu thương, sự hiếu thảo mà nàng đã dành cho mẹ. Rõ ràng Vũ Nương là một người phụ nữ đảm đang, tháo vát. Trong cả ba tư cách: người vợ, người con, người mẹ, tư cách nào cũng nêu cao được đức hạnh của nàng: chung thủy, yêu thương chồng tha thiết, rất mực yêu thương con, hiếu thảo với mẹ chồng. Nàng là mẫu người phụ nữ lí tưởng trong xã hội phong kiến xưa, nàng xứng đáng được hưởng hạnh phúc bà được mọi người trân trọng.
Cứ ngỡ người phụ nữ như Vũ Nương sẽ có một cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn, nhưng nàng lại vướng vào oan khuất đắng cay. Đó là khi Trương Sinh trở về, nghe lời con trẻ mà nghi nàng thất tiết và đã cư xử phũ phàng. Trước khi tự vẫn, nàng cố phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình. Nàng nói đến thân phận, tình nghĩa vợ chồng và khẳng định tấm lòng thủy chung của mình: “Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Những lời nói của nàng đều vì muốn hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có ngu cơ tan vỡ. Vũ Nương đã hết lời phân trần nhưng Trương Sinh không tin, vẫn mắng mỏ nàng thậm tệ và đánh đuổi nàng đi. Hạnh phúc gia đình – nỗi khao khát cả đời nàng đã tan vỡ, tình yêu không còn: “Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió, khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi vọng phu kia nữa”. Cuộc hôn nhân đã không thể nào hàn gắn nổi. Bao công sức xây đắp tổ ấm đã trở nên vô nghĩa. Không thể nào giải được nỗi oan khuất, nàng tìm đến cái chết để bày tỏ tấm lòng mình: “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”. Lời than như một lời nguyền xin thần sông chứng giám cho nỗi oan khuất của nàng. Hành động trẫm mình xuống dưới sông Hoàng Giang là hành động cuối cùng để bảo toàn danh dự. Nàng tìm đến cái chết trong nỗi tuyệt vọng nhưng cũng có sự chỉ đạo của lí trí: nàng tắm gội chay sạch trước khi chết và cầu nguyện một cách thanh thoát.
Tuy nhiên Vũ Nương vì trong sáng, vô tội nên được Linh Phi cứu giúp đưa về động rùa. Ở dưới thủy cung, nàng có được một cuộc sống sung túc cùng các tiên nữ nhưng nàng vẫn không nguôi nỗi đau trần thế, nỗi nhớ gia đình, quê hương và đặc biệt luôn khao khát được phục hồi danh dự. Hình ảnh Vũ Nương trở về trong đàn tràng giải oan của Trương Sinh và lời nói vọng vào của nàng thể hiện nàng là người ân nghĩa thủy chung. Đàn tràng giải oan, sự ân hận muộn màng của Trương Sinh thể hiện tấm lòng vị tha cao thượng. Điều đó còn thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân ta về lẽ công bằng, người tốt dù trải qua bao nhiêu oan khuất cuối cùng cũng được minh oan.
Truyện thành công nhờ việc sắp xếp các tình tiết hợp lí, cách tạo tình huống thắt nút, mở nút. Trên cơ sở cốt truyện có sẵn, tác giả sắp xếp thêm một số tình tiết, thêm bớt, tô đậm những tình tiết có ý nghĩa làm cho diễn biến hợp lí, tăng tính bi kịch làm câu chuyện trên hấp dẫn. Nguyễn Dữ đã khéo léo sử dụng các yếu tố kì ảo tạo kết thúc có hậu làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật chính.
Qua vẻ đẹp và bi kịch của Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã lên án, tố cáo xã hội phong kiến xem trọng quyền uy của người giàu, người đàn ông, đồng thời thể hiện tấm lòng trân trọng của mình đối với người phụ nữ phải chịu nhiều bất hạnh thiệt thòi trong xã hội.
Vũ Nương quê ở Nam Xương, thùy mị nết na, xinh đẹp. Cuộc đời của Vũ Nương thật là ngắn ngủi, nhưng nàng đã làm tròn bổn phận của người phụ nữ. Biết giữ gìn khuôn phép, vì vậy cuộc sống gia đình trong ấm ngoài êm. Trương Sinh đi lính, nàng phải gánh bao vất vả phải sinh nở và nuôi con một mình chăm sóc mẹ già khi ốm đau, khi mẹ mất lo toan như cho mẹ mình. Nàng đã làm tròn bổn phận làm dâu. làm vợ, làm mẹ.
Vũ Nương cũng giống như bao nhiêu người chinh phụ khác, lúc nào nàng cũng ước mong người chồng trở về đoàn tụ. Khát vọng hạnh phúc ấy thật là bình thường giản dị. Người chinh phụ trong tác phẩm Chinh phụ ngâm luôn khao khát chồng đi lính sẽ được phong tước, phong hầu, để rồi một ngày kia “võng anh đi trước, võng nàng theo sau”. Còn Vũ Nương chẳng ham công danh, võng lọng chỉ xin ngày về mang theo hai chữ “bình yên”. Vũ Nương xem trọng hạnh phúc gia đình, xem đó là tất cả của cuộc đời mình.
Trương Sinh trở về, ước mong của Vũ Nương sắp trở thành hiện thực nhưng không ngờ lại có một cuộc chia li vĩnh viễn.
Trương Sinh bế con, nó không theo, chàng dỗ con. Không ngờ thằng bé ngây thơ lại nói: Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Cha tôi chỉ nín thin thít… Trương Sinh gặng hỏi con, thì đã được bé Đản nói rõ ràng: Cha nó ngày nào cũng đến, mẹ nó đi cha nó cũng đi theo, vốn tính cả ghen, Trương Sinh cho rằng có người đàn ông thứ hai xen vào gia đình mình.
Nghi ngờ này sẽ được giải tỏa nếu Trương Sinh cho biết câu nói của con. Trương Sinh không làm như vậy. Cái thói ghen tuông thô lỗ ăn sâu vào tâm trí, khiến cho Trương Sinh mất lí trí, thiếu tỉnh táo đã mắng nhiếc Vũ Nương thậm tệ rồi đánh đuổi nàng đi. Trương Sinh bất chấp những lời thanh minh, van xin tha của Vũ Nương, khiến nàng chỉ còn một con đường lấy cái chết để giãi bày lòng mình.
Từ đây ta nhận thấy nguyên nhân cái chết của Vũ Nương còn do: Chiến tranh li tán, vợ phải xa chồng tạo nên mối ngờ vực, xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ.
Cái chết của Vũ Nương đã chứng minh rằng: Hạnh phúc lứa đôi chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở của tình yêu thương chân chính, có sự cảm thông và sẻ chia.
Tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương đã để lại trong lòng người đọc những cảm xúc khó phai về số phận của người phụ nữ Việt Nam trong chế độ cũ. Hình ảnh người con gái Vũ Nương phải gieo mình xuống dòng sông Nhị Hà để chứng minh sự trong trắng trinh bạch của mình, khi bị chồng nghi oan, khiến cho người đọc vô cùng cảm động, rơi nước mắt xót xa.
Vũ Nương vốn là người con gái thùy mị, đoan trang nhưng do tính đa nghi của người chồng. Do xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, coi trọng tiếng nói, uy quyền của người đàn ông hơn phụ nữ đã khiến cho nàng phải chết oan khuất như vậy. Thông qua tác phẩm của mình tác giả Nguyễn Dữ muốn bày tỏ niềm xót xa với những người phụ nữ thời xưa, thể hiện tinh thần nhân văn nhân đạo của tác giả.
Vũ Nương tên cha mẹ đặt cho nàng là Vũ Thị Thiết, vốn là người con gái nết na, xinh đẹp, khéo tay được nhiều chàng trai để ý thầm thương trộm nhớ. Nhưng năm nàng tròn đôi chín, có chàng trai tên Trương Sinh, gia cảnh neo đơn, nhà chỉ có một mẹ một con đến xin hỏi cưới làm vợ với giá một trăm lạng vàng.
Chính trong phong tục cưới vợ ngày xưa đã cho thấy người phụ nữ không hề có quyền quyết định vận mệnh tương lai, hạnh phúc của mình. Nàng tuy là một con người có suy nghĩ, tính cách của riêng mình nhưng chuyện cưới hỏi, chuyện hạnh phúc trăm năm nàng lại phải nghe lời cha mẹ hai bên. Nàng được hỏi cưới với giá một trăm lạng vàng chẳng khác nào được bán với một trăm lạng vàng.
Từ ngày về làm dâu, làm vợ Trương Sinh, Vũ Nương luôn hiếu thuận với mẹ chồng, là người vợ hiền dâu thảo, không để gia đình chồng chê trách điều gì. Nàng luôn chu đáo lo toan trong ngoài. Từ xưa tới nay những người con dâu như nàng thật hiếm thấy. Nàng và Trương Sinh cũng tâm đầu ý hợp không bao giờ xảy ra to tiếng, cãi vã bất hòa bởi Vũ Nương luôn coi lời chồng và mẹ chồng là quan trọng nhất. Với đức tính ngoan hiền, dịu dàng, thùy mị nết na của mình Vũ Nương luôn giữ gìn gia đình của mình hạnh phúc ấm êm.
Những hạnh phúc ngắn ngủi, Trương Sinh phải gia nhập quân ngũ đi đánh giặc ngoài chiến trường, khi mà Vũ Nương vừa luôn giữ trọn đạo vợ hiền, dâu thảo, nàng chăm sóc mẹ chồng, giữ gìn đức hạnh mới mang thai. Dù xa chồng nhưng Vũ Nương chờ chồng, thủy chung trước sau như một. Không một chút tà tâm, hay có lòng dạ không chung thủy, yếu lòng với ai đó. Nhưng chẳng bao lâu khi Trương Sinh đi xa, mẹ chồng của nàng ốm bệnh, dù đã cố gắng chạy chữa thuốc thang nhưng bà không qua khỏi mà mất đi, bỏ lại Vũ Nương một mình với đứa con nhỏ.
Hai mẹ con nuôi nhau sống qua ngày, chờ ngày Trương Sinh trở về. Nhiều đêm buồn nhớ chồng Vũ Nương thường chỉ bóng mình trên tường nói với con trai đó chính là ba con đó. Thằng bé ngây thơ tưởng thật. Nó đâu biết rằng đó chỉ là cái bóng của mẹ nó mà thôi.
Chiến tranh kết thúc ngày Trương Sinh trở về nhà, Vũ Nương vui mừng khôn xiết, những tưởng năm tháng chờ chồng nuôi con một mình đã được báo đáp. Nhưng sóng gió đã ập đến với nàng một cách không ngờ. Khi về tới nhà nghe tin mẹ mất Trương Sinh đau xót vô cùng, anh chàng liền bế con trai của mình đi ra mộ mẹ thắp hương cho mẹ yên lòng. Nhưng thằng bé cứ khóc mãi không chịu nín nó nhất định không chịu nhận Trương Sinh là cha. Nó bảo cha nó tối nào cũng tới.
Trương Sinh nóng tính, hay ghen, lại quá đa nghi nên vội vã tin lời con trẻ, không cho vợ được giải thích mà đùng đùng nổi giận đuổi vợ ra khỏi nhà. Quá đau đớn vì không thể thanh minh sự trong sạch của mình nên Vũ Nương đã nhảy xuống sông Nhị Hà tự vẫn. Trước nỗi oan khuất quá lớn Vũ Nương không thể nào sống tiếp trên cõi đời này được nữa.
Người con gái tên Vũ Nương đó đã phải chết trong oan khuất, tủi hờn như vậy. Nhưng do phẩm giá cao quý và đức hạnh của nàng đã làm trời đất cảm động. Cuối cùng thì nàng cũng được giải oan, khi mà Trương Sinh trong một đêm không ngủ ngồi soi bóng mình trên tường thì con trai anh nhìn thấy nó vui mừng nói lớn “Cha con đó”. Trương Sinh biết mình đã nghi oan cho vợ nhưng hối hận thì đã muộn màng. Còn Vũ Nương sau khi chết được cứu giúp rồi được lập đàn siêu thoát bay về trời làm tiên nữa, thoát kiếp con người khổ đau bất hạnh.
Chuyện người con gái Nam Xương nhằm tố cáo tội ác của chế độ phong kiến, người đàn ông luôn cậy quyền lực mà đàn áp người phụ nữ khiến cho nhiều người phụ nữ phải chịu thiệt thòi, oan khuất. Nhân vật Vũ Nương là người con gái hiền dịu nết na, là tấm gương cho nhiều nhiều phụ nữ noi theo. Cô là người đức hạnh, hiền thục rất tiếc rằng cuộc đời lại không cho cô gặp được một người chồng tốt, không cho cô được quyết định hạnh phúc của đời mình.
Nguyễn Dữ sống ở thế kỷ XVI quê ở huyện Trường Tân nay là Thanh Miện – Hải Dương. Ông là học trò của Trạng Trình – Nguyễn Bỉnh Khiêm. Các tác phẩm của ông đã đóng góp rất lớn cho nền văn học trung đại Việt Nam. Điển hình là “Truyền kỳ Mạn Lục” gồm có hai mươi câu chuyện nhỏ. Trong đó tiêu biểu là chuyện người con gái Nam Xương là câu chuyện thứ 16 của “Truyền Kỳ Mạn Lục”, được bắt đầu từ truyện cổ tích “vợ chàng Trương”. Truyện thể hiện niềm thương cảm sâu sắc của tác giả trước số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, đồng thời ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của họ qua nhân vật chính Vũ Nương.
Trước tiên, Vũ Nương là người phụ nữ mang nhiều phẩm chất tốt đẹp. Nàng là người phụ nữ bình dân xuất thân từ gia đình nghèo nhưng vừa có nhan sắc, vừa có đức hạnh. Tính đã thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp.
Vẻ đẹp của Vũ Nương là vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam – của “chiếc bánh trôi” trong thơ của Hồ Xuân Hương “vừa trắng lại vừa tròn”. Vì vậy Trương Sinh con nhà hào phú đã xin với mẹ trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ, cuộc hôn nhân ấy vốn không bình đẳng, đã vậy Trương Sinh lại có tính đa nghi, hay ghen. Nhưng trong đạo vợ chồng, nàng tỏ ra là một phụ nữ thông minh, đôn hậu, biết chồng có tính đa nghi hay ghen nàng đã “luôn giữ gìn khuôn phép… thất hòa”. Điều ấy chứng tỏ nàng rất khéo léo trong việc vun vén hạnh phúc gia đình.
Sống trong thời loạn lạc nên cuộc sum vầy chưa được bao lâu thì Trương Sinh tòng quân đi lính nơi biên ải. Buổi tiễn chồng ra trận nàng rót chén rượu đầy chúc chồng bình yên “chàng đi chuyến này thiếp chẳng mong… thế là đủ rồi”. Ước mong của nàng thật giản dị chỉ vì nàng coi trọng hạnh phúc gia đình hơn mọi công danh phù phiếm ở đời. Những năm xa cách Vũ Nương thương nhớ chồng khôn xiết kể: “Mỗi khi bướm lượn đầy vườn mây che kín núi thì nỗi buồn chân trời góc bể lại không thể nào ngăn được”.
Tâm trạng thương nhớ ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của nhiều người chinh phụ trong thời loạn lạc ngày xưa:
(Chinh phụ ngâm khúc, Đoàn Thị Điểm)
Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau xa cách chồng của Vũ Nương vừa ca ngợi tấm lòng chung thủy của nàng.
Không chỉ là một người vợ chung thủy, Vũ Nương còn là một người mẹ hiền, người con dâu hiếu thảo, chàng ra trận vừa tròn tuần thì nàng sinh con nuôi dạy con khôn lớn. Để bù đắp thiếu vắng cha của con nàng chỉ chiếc bóng của mình trên tường và nói là cha Đản, còn với mẹ chồng già yếu nàng chăm sóc mẹ rất chu đáo, thuốc thang phụng dưỡng như cha mẹ đẻ của mình. Nàng đã làm chọn chữ “công” với nhà chồng. Đây là điều rất đáng trân trọng của Vũ Nương bởi thời xưa quan hệ mẹ chồng nàng dâu dường như chưa bao giờ êm đẹp và chứa đầy những định kiến khắt khe.
Tấm lòng của nàng đã được người mẹ chồng ghi nhận, điều này thể hiện qua những lời trăn trối của bà trước khi qua đời “Sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức giống dòng tối tươi, xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Vũ Nương chính là người phụ nữ lý tưởng trong xã hội ngày xưa: Công, dung, ngôn, hạnh.
Là người phụ nữ có bao phẩm chất tốt đẹp đáng lẽ nàng phải được hưởng cuộc sống hạnh phúc chí ít cũng như nàng mong ước đó là thú vui nghi gia, nghi thất – vợ chồng con cái sum họp bên nhau. Thế nhưng cuộc sống của Vũ Nương cũng như cuộc đời của người phụ nữ xưa là những trang buồn đầy nước mắt. Bất hạnh của nàng bắt đầu từ khi giặc tan Trương Sinh trở về, chuyện cái bóng của con thơ đã là Trương Sinh ngờ vực, rồi kết tội Vũ Nương. Chàng đinh ninh là vợ hư, nàng hết lời phân trần để bày tỏ lòng thủy chung, cố gắng hàn gắn hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ những tất cả đều vô ích. Vốn có tính hay ghen lại vũ phu ít học.
Trương Sinh đã đối xử với nàng hết sức tàn nhẫn “mắng nhiếc, đánh đuổi nàng đi”, bỏ ngoài tai những lời phân trần của vợ và những lời khuyên can của hàng xóm. Thất vọng đến tột cùng Vũ Nương đành mượn dòng nước quê hương để giải tỏa nỗi lòng trong trắng của mình. Nàng “tắm gội chay sạch ra bến sông Hoàng Giang ngửa cổ lên trời là than rằng kẻ bạc mệnh này duyên hẩm hiu… phỉ nhổ”. Nói rồi nàng nhảy xuống sông tự vẫn. Vũ Nương bị người thân nhất đẩy xuống bên bờ vực thẳm dẫn đến bi kịch gia đình.
Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương (thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến) qua “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, “thà chết trong còn hơn sống đục” với tấm lòng yêu thương con người Nguyễn Dữ không để cho sự trong sáng cao đẹp của Vũ Nương phải chịu oan khuất nên phần cuối chuyện đầy ắp những chi tiết hoang đường kì ảo. Sau câu chuyện của Phan Lang, Trương Sinh lập đàn giải oan cho vợ. Nàng trở về trong thế rực rỡ uy nghi nhưng chỉ thấp thoáng trong giây lát rồi biến mất mãi mãi. Vũ Nương mãi mất đi quyền sống, quyền hạnh phúc, quyền làm vợ, làm mẹ. Bi kịch của Vũ Nương cũng chính là bi kịch của người phụ nữ xã hội xưa. Bi kịch ấy không chỉ dừng ở thế kỉ XVI, XVII, XVIII mà đến đầu thế kỷ XIX Nguyễn Du từng viết trong truyện Kiều:
Với niềm xót thương sâu sắc, Nguyễn Dữ lên án những thế lực tàn ác chà đạp lên những khát vọng chính đáng của con người – của phụ nữ. Ông tố cáo xã hội phong kiến với những hủ tục phi lý, trọng nam khinh nữ, đạo tam tòng bao bất công và hiện thân của nó là nhân vật Trương Sinh, người chồng ghen tuông mù quáng, vũ phu sống với hủ tục là thế lực đồng tiền bạc án nên Trương Sinh con nhà hào phú một lúc bỏ ra trăm lạng vàng để cưới Vũ Nương. Ngoài ra ông còn tố cáo chiến tranh phi nghĩa đã làm phá vỡ hạnh phúc gia đình của con người.
Như vậy bằng cách xây dựng truyện hết sức độc đáo là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố tự sự, trữ tình và yếu tố thực ảo. Chuyện “Người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ mang đến cho chúng ta bao ấn tượng tốt đẹp. Truyện ca ngợi Vũ Nương có đầy đủ phẩm chất tốt đẹp mang tính truyền thống nhưng cuộc đời nàng lại là những trang buồn đầy nước mắt. Vẻ đẹp số phận của nàng cũng là vẻ đẹp số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến cũ. Ngày nay chúng ta được sống trong thế giới công bằng dân chủ, văn minh người phụ nữ là một nửa của thế giới họ được hưởng những quyền lợi mà nam giới được hưởng. Vậy chúng ta hãy phát huy những vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ xưa và thương cảm trước số phận của họ
…..
Nguyễn Dữ sống ở thế kỷ 16, là một người học rộng, tài cao nhưng bất mãn với thời cuộc, chọn cách sống ẩn dật. “Chuyện người con gái Nam Xương” là thiên truyện thức 16 trích trong tập Truyền kì mạn lục, một tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Dữ.
Vũ Nương là nhân vật chính trong truyện; là người phụ nữ bình dân có truyền thống tốt đẹp về đạo đức, phẩm chất nhưng trong xã hội phong kiến phải chịu đau khổ. Đọc “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ ta thương nhân vật Vũ Nương người con gái thùy mị nết na, tư dung tốt đẹp, người vợ hiền con thảo nhưng bị hàm oan phải tự tử để bảo vệ danh tiết.
Vũ Nương là người con gái đẹp người, đẹp nết, lấy chồng là Trương Sinh, con nhà hào phú. Hạnh phúc chưa được bao lâu thì quân giặc quấy nhiễu biên cương, Trương Sinh phải đi lính. Do hoàn cảnh trớ trêu và những nghi kị của chồng, Vũ Nương đã chọn lấy một cái chết oan ức, để lại cho nhân gian biết bao thương cảm.
Vũ Nương là người phụ nữ đẹp người, đẹp nết: “vốn đã thùy mị, nết na lại thêm tư dung, tốt đẹp”. Nàng có nhiều phẩm chất tốt đẹp, mẫu mực mà một người phụ nữ cần có. Là người vợ dịu hiền, biết giữ gìn khuôn phép. Lúc chồng còn ở nhà, nàng hiểu tính chông, chưa từng để gia đình phải bất hòa. khi chồng đi xa, nàng vẫn một lòng chung thủy, thương nhớ chồng khôn nguôi, mong chồng trở về bình yên vô sự, ngày qua tháng lại một mình vò võ nuôi con.
Là người con dâu hiếu thảo. Khi Trương Sinh ra trận, người mẹ vì mong nhớ con trong lòng khổ sầu. Nàng lựa lời an ủi, giúp mẹ nguôi ngoai. Lúc bà ốm, nàng tận tình chăm sóc như mẹ đẻ của mình. Lúc bà mất, nàng lo việc ma chay, tế lễ chu toàn.
Là người mẹ yêu thương con: Một mình chăm sóc con nhỏ khi chồng đi vắng. Nàng luôn tìm cách bù đắp thiếu thốn tinh thần của con bằng cách chỉ vào bóng mình trên tường giả làm cha đứa bé.
Là người phụ nữ trọng nhân phẩm, tình nghĩa. Khi bị chồng nghi oan, nàng hết lời giải thích, phân trần nhưng không được. Tuyệt vọng, nàng chọn cái chết để minh oan cho mình. Khi ở dưới thủy cung, nàng ngày đêm mong nhớ quê hương.
Là người phụ nữ giàu lòng vị tha: Bị Trương Sinh đẩy đến đường cùng phải chết oan ức nhưng không oán trách, hận thù. Khi trương Sinh lập đàn giải oan ở bến sông vẫn hiện về nói lời “đa tạ tình chàng”.
Trương sinh đa nghi, hồ đồ, vì nghe lời con trẻ ngây thơ đã nghi oan, cho rằng nàng đã thất tiết, sỉ mắng nàng thậm tệ. Vũ Nương đau khổ, khóc lóc bày tỏ nỗi oan với chồng nhưng chồng vẫn không nghe còn mắng nhiếc, đánh và đuổi nàng đi. Không thể thanh minh được, nàng tìm đến cái chết để tỏ bày nỗi oan ức của mình. Ở thuỷ cung, nàng vẫn nhớ quê hương, có ngày tất phải tìm về. Tìm về là để giải bày nỗi oan với chồng, với mọi người. Nhưng nàng không thể trở về với nhân gian được nữa.
Chuyện người con gái Nam Xương đã thể hiện niềm thương cảm với số phận oan nghiệt của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ: hiếu thảo, son sắt, nhân hậu. Đồng thời, lên án, tố cáo chiến tranh phi nghĩa, phê phán nhiều thói xấu trong xã hội như thói gia trưởng, thô bạo, bất bình đẳng giới.. luôn chà đạp, vùi dập người phụ nữ.
Đặc biệt, với nghệ thuật xây dựng nhân vật tài tình, nhân vật được xây dựng qua lời nói và hành động. Tạo dựng tình huống để thử thách nhân vật, khắc họa nhân vật qua ngoại hình, hành động, đối thoại… kết hợp với yếu tố kì ảo có thực Các lời trần thuật và đối thoại của nhân vật sử dụng nhiều hình ảnh ước lệ nhưng vẫn khắc họa đậm nét và chân thật nội tâm nhân vật.
Thông qua cuộc đời và số phận của nhân vật Vũ Nương, tác phẩm tố cáo xã hội phong kiến xem trọng quyền uy của kẻ giàu có và của người đàn ông trong gia đình, tố cáo chiến tranh phi nghĩa khiến cho con người chịu nhiều oan khuất và bế tắc, phải tìm đến cái chết để kết thúc bi kịch cuộc đời. Tác phẩm ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam thông qua nhân vật Vũ Nương: thùy mị, nết na, luôn giữ gìn khuôn phép, hết mực thủy chung với chồng. Những phẩm chất tốt đẹp của Vũ Nương cũng chính là nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam cần được tôn vinh trong mọi thời đại.
Hải Dương là một mảnh đất hiếu học, nơi ấy đã sản sinh ra nhiều nhân tài cho đất nước như Nguyễn Dữ, một nhà văn lớn, một học trò xuất sắc của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông có nhiều đóng góp cho nền văn học trung đại nước nhà trong đó tác phẩm Truyền kì mạn lục gồm hai mươi câu chuyện nhỏ đã gây nên một tiếng vang lớn và khiến nhiều người biết đến ông hơn. Chuyện người con gái Nam Xương chính là câu chuyện thứ 16 trong Truyền kì mạn lục để lại nhiều ấn tượng đối với bạn đọc. Tác giả đã chạm đến cảm xúc của người đọc khi mà lột tả được hết bi kịch trong cuộc đời của người con gái tên là Vũ Nương.
Người con gái ấy mang trong mình rất nhiều phẩm chất tốt đẹp. Nàng sinh ra trong một gia đình nghèo khó về vật chất nhưng lại có nhan sắc, đức hạnh. Vốn dĩ những người phụ nữ như vậy phải được hưởng một cuộc sống hạnh phúc nhưng hồng nhan thì bạc mệnh, có lẽ đó là lời nguyền chung. Như Thúy Kiều của Nguyễn Du, một người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng lại phải sống một cuộc đời đầy khổ ải, chịu nhiều tủi nhục. Trở lại với Vũ Nương, nàng được Nguyễn Dữ miêu tả là người phụ nữ có tính tình thùy mị, nết na lại thêm tư duy tốt đẹp. Vũ Nương mang một vẻ đẹp thuần khiết của một người phụ nữ Việt Nam thời xưa mà như Hồ Xuân Hương đã từng viết trong tác phẩm của mình là “vừa trắng lại vừa tròn”. Chính nhờ những vẻ đẹp ấy của mình mà Vũ Nương lọt vào mắt xanh của Trương Sinh, con trai nhà hào phú. Nàng được gả về làm vợ Trương Sinh với mức giá trăm lạng vàng, một cuộc hôn nhân không bình đẳng, không phải vì tình yêu. Mà thời xưa, phụ nữ Việt đâu có được sống với tình yêu, với thanh xuân.
Lấy được một người chồng có gia thế, lẽ ra Vũ Nương phải được sống hạnh phúc trong nhung lụa. Nhưng nàng không vì giàu sang mà đánh đổi bản thân mình. Nàng vẫn giữ được cái đức hạnh của một người con gái chân quê. Nàng chăm chỉ làm lụng lo cho gia đình nhà chồng. Nàng chăm sóc mẹ chồng như chăm sóc mẹ đẻ của mình. Cưới nhau chưa được bao lâu thì Trương Sinh phải đi lính, nàng một mình ở nhà chăm sóc mẹ già lại thêm đứa con ở trong bụng, vất vả đủ đường. Đứa con chào đời mà người chồng vẫn chưa trở về, Vũ Nương mòn mỏi chờ đợi chẳng khác nào người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm khúc. Nàng vẫn luôn giữ gìn khuôn phép, giữ trọn đạo lý làm vợ, làm mẹ. Nàng khéo léo vun vén hạnh phúc gia đình, thu vén công việc và cho thấy mình là một người phụ nữ thông minh. Nàng khiến cho bà con làng xóm, mẹ chồng ai cũng đều yêu mến.
Với mẹ chồng, nàng chăm sóc bà tận tình và điều đó thể hiện rõ nét nhất trong những ngày cuối đời của bà. Một mình người phụ nữ bé nhỏ là Vũ Nương phải chạy đôn chạy đáo lo thuốc thang cho mẹ chồng. Bà không qua khỏi, nàng lại vất vả lo ma chay. Phải mạnh mẽ lắm, giỏi giang lắm thì Vũ Nương mới đủ sức một mình gồng gánh quá nhiều công việc như vậy. Kể mà có một người đàn ông trong nhà thì nàng đỡ khổ bao nhiêu. Mẹ chồng nàng trước khi qua đời cũng đã ghi nhận công lao của nàng với gia đình nhà chồng mà trăn trối rằng “Sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức giống dòng tốt tươi, xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.
Với con trai, nàng vừa là mẹ, vừa là cha. Những đứa trẻ lớn lên thiếu thốn tình cảm của người cha thường có sự mặc cảm trong lòng. Chưa kể chúng còn dễ bị người đời dè bỉu. Tất nhiên, cha Đản đi lính nên không ai dè bỉu Đản cả. Thế nhưng Vũ Nương vẫn sợ con mình cảm thấy thiếu thốn tình cha. Và để bù đắp cho sự thiếu thốn ấy, đêm đêm nàng chỉ vào cái bóng của mình ở trên tường và bảo với con đó chính là cha của con. Nàng không ngờ rằng chính vì điều này đã khiến cuộc đời nàng rơi vào bi kịch.
Trương Sinh chồng nàng là một người có tính đa nghi. Cộng thêm hoàn cảnh chiến tranh đẩy cặp vợ chồng này phải xa nhau nên Trương Sinh càng trở nên đa nghi hơn. Chuyện cái bóng thông qua lời kể của bé Đản khiến Trương Sinh nghi ngờ tình cảm và sự chung thủy của người vợ. Sự mù quáng của Trương Sinh khiến chàng không muốn nghe ai nói, không muốn nghe bất cứ một lời giải thích nào. Chàng vội kết tội Vũ Nương là người không chung thủy mặc cho nàng giải thích. Thậm chí, Vũ Nương còn bị mắng nhiếc thậm tệ và bị đuổi đi. Vũ Nương không còn cách nào khác, nàng đã mượn dòng nước quê hương để giãi bày nỗi lòng trong trắng của mình. Đáng thương thay số phận người phụ nữ bị chính người thân yêu nhất của mình đẩy vào con đường cùng.
Qua Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ chúng ta cảm nhận được Vũ Nương là một người phụ nữ có tư chất thông minh, tâm hồn trong sáng và cao đẹp. Nàng thà chết để giữ sạch sự trong sáng, giữ sạch phẩm hạnh của mình còn hơn là sống mà để cho người ta nghi ngờ. Như cảm thông cho số phận của người phụ nữ này và cũng như một cách lên tiếng bảo vệ người phụ nữ, Nguyễn Dữ đã để cho nàng được sống dưới long cung nhưng không cho nàng trở về để cảnh tỉnh những người đàn ông như Trương Sinh. Một lời nói ra có thể giết chết một con người và chúng ta sẽ không thể nào sửa chữa được sai lầm to lớn ấy. Trương Sinh sau khi nghe câu chuyện của Phan Lang đã lập đàn giải oan cho vợ nhưng cũng không đủ giúp chàng giải thoát được sự giằn vặt từ sâu trong tâm can.
Từ nỗi khổ, nỗi bất hạnh của Vũ Nương, ta cũng cảm nhận được nỗi đau của những người phụ nữ sống trong xã hội cũ. Chính chiến tranh đã gây nên tội ác lớn lao cho con người, khiến đôi lứa phải xa nhau, mẹ phải xa con, vợ phải xa chồng. Trên hết, Nguyễn Dữ thông qua hình ảnh Vũ Nương đã ca ngợi những phẩm chất tuyệt vời của người phụ nữ Việt Nam thời xưa.
(Bánh trôi nước – Hồ Xuân Hương)
Bà chúa thơ Nôm đã từng viết về thân phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến ngày xưa như thế. Họ xinh đẹp, tài năng, có những phẩm chất tốt nhưng lại bị cuộc đời chà đạp. Để bênh vực số phận của họ đã có rất nhiều những nhà văn, nhà thơ lên tiếng qua các sáng tác, trong đó có Nguyễn Dữ với Chuyện người con gái Nam Xương, trích trong Truyền kì mạn lục, một tác phẩm văn xuôi viết bằng chữ Hán của ông. Tác phẩm kể về bi kịch cuộc đời của nhân vật Vũ Nương- một người con gái tư dung tốt đẹp, tính thuỳ mị nết na nhưng lại có một số phận oan trái.
Chuyện người con gái Nam Xương là tiếng nói đồng cảm, trân trọng, ngợi ca của tác giả đối với con người, đặc biệt là người phụ nữ. Nhân vật chính là Vũ Nương, người con gái quê Nam Xương, vốn con kẻ khó nhưng có một khát khao bao trùm cả cuộc đời – đó là “thú vui nghi gia nghi thất”. Nàng vừa có nhan sắc, vừa có đức hạnh, mang đầy đủ vẻ đẹp của một người phụ nữ lý tưởng “Tính đã thuỳ mị nết na, lại thêm có tư dung tốt đẹp. Khi xây dựng nhân vật này, Nguyễn Dữ không mấy chú trọng đến “tư dung” – ngoại hình mà ông quan tâm nhiều đến những phẩm chất tốt đẹp của nàng. Vậy, sự thuỳ mị nết na ấy của Vũ Nương được biểu hiện như thế nào?
Trước hết, Vũ Nương là một người phụ nữ khát khao hạnh phúc gia đình, không màng công danh và thuỷ chung, yêu thương chồng hết mực.
Trong những ngày đoàn viên ngắn ngủi, dù Trương Sinh “có tính đa nghi, phòng ngừa quá sức” nhưng nàng đã “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà”. Thế rồi chiến tranh xảy ra, người chồng yêu dấu của nàng phải đi lính. Mong ước lớn nhất của nàng không phải là công danh phú quý mà nàng chỉ khát khao ngày chồng mình trở về “mang theo hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Mong ước ấy thật là bình dị. Vũ Nương đã khát khao và coi trọng hạnh phúc gia đình hơn mọi công danh phù phiếm ở trên đời.
Và rồi, người chồng yêu dấu của nàng đã ra đi. Trong xa cách, Vũ Nương luôn thương nhớ chồng khôn xiết, nỗi nhớ ấy cứ dài theo năm tháng: “Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Người thiếu phụ trẻ trung xinh đẹp ấy một lòng một dạ chờ chồng, nuôi con. Thế mà khi Trường Sinh trở về, nhân vật chính của chúng ta lại bị nghi oan là thất tiết. Đây là một cái án quá lớn đối với nàng. Trước sự đối xử tệ bạc: mắng nhiếc, đánh đập, đuổi đi của người mà suốt ba năm xa cách nàng luôn đằng đẵng nhớ thương ấy, Vũ Nương vẫn cố phân trần, khẳng định sự thuỷ chung của mình và cầu xin “Mong chàng một mực đừng nghi oan cho thiếp”. Nghĩa là người con gái này vẫn hết lòng tìm cách hàn gắn cái hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ. Thế nhưng mong ước bình dị, “cái thú vui nghi gia nghi thất” ấy đã vỡ tan. Tổ ấm mà nàng đã dày công gây dựng nên đã bị Trương Sinh phá vỡ nhưng người thiếu phụ này vẫn luôn nhớ đến chồng nên khi sống dưới thuỷ cung, nghe Phan Lang nhắc đến gia đình, nàng cũng “ứa nước mắt” và muốn được trở về. Dưới ngòi bút của Nguyễn Dữ, nhân vật Vũ Nương hiện lên rất đỗi dịu dàng, đằm thắm, thiết tha với hạnh phúc gia đình, không hư danh và thương chồng hết mực.
Không những thế, nhân vật này còn là một con dâu hiếu thảo, một người mẹ yêu thương con hết mực. Một mình nàng phải chịu bao gian lao, vất vả; nào là khi sinh đẻ không ai đỡ đần, nào là một thân vừa nuôi con thơ, vừa chăm sóc mẹ chồng già yếu. Thế nhưng nàng đã lo tròn chu tất lo thuốc thang cầu khẩn thần phật và lúc nào cũng dịu dàng ân cần lấy lời ngọt ngào, khôn khéo khuyên lơn. Rồi khi mẹ chồng mất, nàng lại một mình lo việc ma chay, tế lễ chôn cất như đối với cha mẹ đẻ của mình. Ngòi bút của Nguyễn Dữ thật già dặn khi để cho chính người mẹ chồng ấy nhận xét về tấm lòng hiếu thảo của nàng trước khi bà qua đời: “Sau này trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn. Xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ.”. Rõ ràng, trong mắt của bà, nàng là một “người lành”.
Còn đối với bé Đản thì sao? Nàng luôn yêu thương và chăm sóc con chu đáo. Và cũng có lẽ vì yêu thương con, vì muốn con lúc nào cũng có cha ở bên, không cảm thấy thiệt thòi về mặt tình cảm nên Vũ Nương đã chỉ bóng mình ở trên tường mà bảo là cha nó để dỗ dành con. Cuộc đời Vũ Nương tuy ngắn ngủi nhưng nàng đã làm tròn nghĩa vụ của một người phụ nữ: làm con dâu, làm vợ, làm mẹ.
Qua cách xử thế cũng như qua lời nói, thái độ, hành động, ta còn thấy hiện lên một Vũ Nương coi trọng nhân phẩm. Trước sự nghi oan của chồng, nàng đã tìm đến cái chết với lời than: “Nếu thiếp đoan trang giữ tiết trinh bạch gìn lòng thì vào nước xin làm ngọc Mị Nương, dưới đất xin làm cỏ Ngu Mĩ”. Lời than như một lời nguyền xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và tiết sạch giá trong của mình. Hành động tự trẫm mình của nàng là một hành động quyết liệt để bảo toàn danh dự, có nỗi tuyệt vọng đắng cay nhưng cũng có sự chỉ đạo của lý trí “tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời than” không phải là một hành động bột phát trong cơn nóng giận như truyện cổ tích miêu tả. Và khi không còn ở dương gian, sống ở cõi âm, nàng vẫn muốn trở về, muốn khát khao được phục hồi danh dự. Dường như Nguyễn Dữ đã tập trung những nét điển hình của người phụ nữ Việt Nam vào nhân vật Vũ Nương. Đó là hình ảnh người phụ nữ lý tưởng trong xã hội phong kiến ngày xưa.
Lẽ ra, với sự dịu dàng, đảm đang, tháo vát, hiểu nghĩa, tận tụy và chung tình đó, người phụ nữ này phải được đền bù xứng đáng bằng một gia đình yên ấm. Nhưng oái oăm thay, Vũ Nương lại phải nhận lấy một số phận đau thương – nàng phải chết. Đó chính là bi kịch về số phận con người. Ngày sum họp cũng là ngày nàng lìa xa tổ ấm. Và đau đớn hơn, kẻ đẩy nàng vào cái chết bi thảm không phải ai xa lạ mà chính là người chồng nàng hằng thương nhớ “cách biệt ba năm giữ gìn một tiết” và đứa con trai duy nhất của nàng. Chỉ vì tin lời con trẻ và do ghen tuông mù quáng mà Trương Sinh đã nghi ngờ và gán cho vợ là thất tiết. Chàng ta đã hành hạ, đánh đập, nhiếc móc Vũ Nương không tiếc lời, không nghe lời “biện bạch mà bênh vực cho nàng” của hàng xóm cũng như những lời phân trần, giãi bày của vợ để Vũ Nương phải lấy cái chết để bày tỏ lòng mình. Một cái chết thật đớn đau và oan uổng. Cái chết đó khác nào bị bức tử mà kẻ bức tử lại hoàn toàn vô can. Qua thân phận của nhân vật này, nhà văn muốn tố cáo xã hội phong kiến và bày tỏ niềm cảm thương của tác giả đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ. Vũ Nương cũng như bao người con gái khác, họ đều phải chịu một số phận đau thương như thế. Một cung nữ trong “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều mòn mỏi trong cung cấm để tuổi xuân phải trôi qua trong nỗi tiếc nuối, đợi chờ. Một Thuý Kiều tài sắc vẹn toàn mà phải mười lăm năm lưu lạc, dang dở tình duyên, hai lần vào lầu xanh, trải qua những tháng ngày nhục nhã… Những người phụ nữ đức hạnh này không được che chở, bênh vực mà còn bị đối xử một cách bất công, vô lý.
Để xây dựng thành công hình tượng nhân vật Vũ Nương, một yếu tố mà ta không thể không nhắc đến, ấy là nghệ thuật kể truyện. Truyện có rất nhiều lời thoại và lời tự bạch của nhân vật được sắp xếp rất đúng chỗ làm cho câu chuyện trở nên sinh động, góp phần không nhỏ vào việc khắc hoạ tính cách nhân vật. Qua lời nói của Vũ Nương với Trương Sinh, với mẹ chồng và những lời tự bạch của nàng trước khi chết bao giờ cũng chân thành, dịu dàng, mềm mỏng, có lý có tình ngay cả trong lúc đang tức giận nhất đã cho ta thấy được sự nết na, hiền thục trong trắng, không có gì đáng khuất tất của nhân vật này. Nguyễn Du đã đan xen những yếu tố kì ảo vào truyện: Vũ Nương không chết. Nàng ở dưới thuỷ cung, hiện lên ở bến sông với lời tạ từ ngậm ngùi: “Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về dân gian được nữa” đã làm cho thế giới kì ảo lung linh, mơ hồ trở nên gần gũi với cuộc đời thực, hoàn thiện thêm nét đẹp của tính cách nhân vật Vũ Nương: dù ở thế giới khác vẫn nặng tình với cuộc đời, quan tâm đến chồng con và khát khao được phục hồi danh dự. Cũng qua chi tiết ảo này, người đọc thấy rõ hơn về số phận đau thương của nhân vật chính. Nỗi oan của nàng quá lớn nên không có đàn nào giải nổi.
Trên cơ sở cốt truyện có sẵn, nhà văn đã sắp xếp lại một số tình tiết, thêm bớt hoặc tô đậm những tình tiết có ý nghĩa: lời trăn trối của bà mẹ chồng đã khẳng định một cách khách quan nhân cách và công lao của Vũ Nương đối với gia đình chồng. Những lời phân trần, giãi bày của nàng khi bị nghi oan và hành động quyết liệt, bình tĩnh của nàng khi tìm đến cái chết làm cho hành động nhân vật trở nên đẹp hơn.
Câu chuyện đã khép lại nhưng tấm bi kịch về cuộc đời của nhân vật Vũ Nương và những phẩm hạnh của nàng mãi để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Nguyễn Dữ đã vượt khỏi công thức thông thường về hình tượng người phụ nữ trong thể truyền kì để xây dựng nên hình tượng của một người phụ nữ bình thường như bao người vợ, người mẹ khác trong đời. Tuy mang yếu tố hoang đường nhưng Chuyện người con gái Nam Xương vẫn là một áng văn giàu giá trị nhân đạo, có sức hấp dẫn đối với người đọc ngày nay.
Từ xa xưa đến nay, người phụ nữ Việt Nam luôn được tôn vinh bởi những nét đẹp truyền thống như sự hi sinh thầm lặng, thùy mị nết na hay sự gan dạ, dũng cảm, kiên cường bất khuất. Có rất nhiều tác phẩm văn học Việt Nam lấy đề tài về những đức tính tốt đẹp của người phụ nữ. Trong đó có Nguyễn Dữ, gương mặt tiêu biểu của văn học Việt Nam thế kỉ XVI, ông đã đặt niềm thương tiếc đặc biệt cho thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”.
Nguyễn Dữ là con trai cả Tiến sĩ Nguyễn Tường Phiêu, thầy học là Nguyễn Bỉnh Khiêm, và bạn học là Phùng Khắc Khoan. “Chuyện người con gái Nam Xương” là truyện thứ 16 trong tổng số 20 truyện của tác phẩm “Truyền kì mạn lục”. Truyện được coi là một cuốn “thiên cổ kì bút” về cuộc đời của người phụ nữ trong sự hà khắc của xã hội cũ cũng như tiếc thương cho số phận của họ, tiếc thương cho sự bất lực của họ khi không được nói lên tiếng lòng của mình. Nhân vật Vũ Nương là linh hồn của cả tác phẩm, nàng hội tụ đầy đủ những phẩm chất truyền thống tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam, đó là thủy chung với chồng, hiếu thảo với mẹ chồng và là người mẹ mẫu mực.
Thứ nhất, Vũ Nương là người phụ nữ thủy chung son sắc, một lòng chờ chồng khi chồng tòng quân đánh giặc. Khi chưa gả cho Trương Sinh, Vũ Nương vốn đã là người phụ nữ “người đã thùy mị nết na, lại thêm có tư dung tốt đẹp” được nhiều chàng trai thầm thương trộm nhớ. Khi vừa đôi chín, nàng được Trương Sinh đem “trăm lạng vàng cưới về”. Chỉ một chi tiết nhỏ cũng thấy được những hủ tục ngày xưa đã trói buộc người phụ nữ đến mức nào. Vũ Nương hoàn toàn không được quyết định hạnh phúc trăm năm của mình. Điểm mốc quan trọng nhất đời nàng được quyết định bằng trăm lượng vàng và sự thỏa thuận của gia đình hai bên. Chi tiết này chẳng khác nào Vũ Nương được bán đi với giá trăm lượng. Sau khi được gả cho Trương Sinh, nàng biết tính chồng hay ghen nên luôn “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”, nàng luôn là dâu hiền vợ thảo, chăm lo toàn vẹn cho gia đình nhà chồng, chưa để ai phải chê trách bất cứ điều gì.
Với tính đa nghi của Trương Sinh, cuộc sống vợ chồng của nàng không hề bất hòa là do sự gìn giữ của Vũ Nương, nàng luôn đặt chồng và mẹ chồng ở vị trí quan trọng, đem sự chân thành và thực lòng yêu thương họ. Điều này thể hiện rất rõ ràng trong lời tiễn biệt của nàng khi chồng chuẩn bị ra chiến trường, nàng không mong vinh hoa phú quý, “chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Rõ ràng, nàng không phải là người phụ nữ tham tiền tài cũng chẳng màng công danh, tất cả những gì nàng mong muốn cũng giống như bao chinh phụ khác đó là mong sự bình an trở về của người chồng. Không chỉ vậy, nàng cảm thông cho những khó khăn, vất vả mà chồng phải gánh ở nơi chiến trường, lo lắng cũng như muốn san sẻ những khó khăn ấy. Ngày xa chồng, nàng “ngước mắt trông lên đã đẫm nỗi buồn ly biệt”. Trong thời gian chờ chồng, nàng luôn “giữ gìn một tiết, tô son điểm phấn, từng đã nguội lòng, ngõ liễu đường hoa chưa hề bén gót”. Cách biệt ba năm, nỗi nhớ chồng của nàng theo năm tháng đầy vơi, “nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Dưới ngòi bút trân trọng của Nguyễn Dữ, Vũ Nương được phác họa là người phụ nữ dịu dàng nết na, nhất mực yêu thương và chờ đợi chồng cũng như khéo léo, tận tụy, luôn giữ gìn, vun vén cho hạnh phúc gia đình. Nguyễn Dữ vừa cảm thông cho nỗi nhớ chồng của người chinh phụ vừa ca ngợi tôn vinh những phẩm chất đáng quý của nàng.
Thứ hai, Vũ Nương là người phụ nữ hiếu thảo, hiếu nghĩa trong quan hệ với mẹ chồng. Khi Trương Sinh ra chiến trường, nàng thay chồng phụng dưỡng mẹ nhưng vì nhớ con mà bà mẹ sinh bệnh, nàng “hết sức thuốc thang, lễ Phật cầu thần, cúng ma gọi vía và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Khi mẹ chồng nàng qua đời, ma chay tế lễ nàng đều chu tất. Lời cuối của người mẹ chồng chính là minh chứng cho sự tận tụy, hiếu thảo của nàng “Sau này trời giúp người lành, ban cho phúc trạch, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, mong ông xanh kia chẳng phụ con cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ.” Những lời ca ngợi đẹp đẽ nhất ấy được nói ra từ người mẹ chồng lại khiến nó trở nên đáng quý hơn bao giờ hết. Nguyễn Dữ đã khắc họa nhân vật Vũ Nương với đầy đủ những phẩm chất đáng quý nhất, hiếu thảo hiếu nghĩa, hết lòng với mẹ chồng như cha mẹ đẻ.
Thứ ba, với con Vũ Nương luôn là người mẹ mẫu mực. Khi chồng đi xa, nàng một mình vượt cạn sinh ra bé Đản. Một mình gánh vác nhà chồng nhưng nàng chưa bao giờ chểnh mảng việc chăm nuôi con khôn lớn. Chi tiết mỗi tối nàng chỉ lên bóng mình và nói rằng cha Đản về cũng cho thấy rằng nàng luôn sợ con thiếu vắng tình cha nên luôn cố gắng bù đắp cho con. Dù phải dằn vặt với nỗi nhớ chồng cũng như chăm lo cho người mẹ chồng bị ốm nhưng Vũ Nương vẫn luôn nuôi dạy bé Đản khôn lớn với tình yêu thương vô bờ của người mẹ.
Người phụ nữ vẹn toàn hiếu đức ấy đáng lẽ ra xứng đáng một cuộc sống hạnh phúc suốt đời nhưng nàng lại phải chịu sự đa nghi của chồng mà gieo mình ở bến Hoàng Giang. Những lời của nàng trước khi chết là sự quyết liệt cuối cùng để chứng minh sự trong sạch “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu chồng con rẫy bỏ,điều đâu bay buộc tiếng chịu nhuốc nhơ,thần sông có linh xin ngài chứng giám,thiếp nếu đoan trang giữ tiết,trinh bạch gìn lòng,xuống nước xin làm ngọc Mỵ Nương,vào đất xin làm cỏ Ngu Mĩ…”. Bằng lời văn thống thiết, nhịp điệu dồn dập, cái chết của Vũ Nương đã tố cáo trước hết là tư tưởng nam trưởng phong kiến cổ hủ, độc đoán đối với người phụ nữ đã biến những người chồng như Trương Sinh trở thành những tên ác quỷ của gia đình, sau đó lên án chiến tranh phi nghĩa đã làm để những người vợ trở thành chinh phụ mòn mỏi chờ chồng.
Tóm lại, bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật sắc sảo cùng với việc sử dụng các yếu tố kì ảo, Nguyễn Dữ là thành công xây dựng nhân vật Vũ Nương hội tụ đầy đủ các phẩm chất đáng quý của người phụ nữ Việt Nam. Qua bao nhiêu năm tháng cũng như bao tác phẩm văn học ra đời thì nhân vật Vũ Nương vẫn là một tấm gương sáng về sự hi sinh, tận tụy, hiếu nghĩa, chung thủy. Cũng qua nhân vật này, tác giả còn gián tiếp phê phán tư tưởng nam quyền trong xã hội phong kiến đồng thời phê phán những định kiến cổ hủ đặt nặng lên đôi vai người phụ nữ thời bấy giờ.
Trong hành trình dài của văn học Việt Nam, có rất nhiều tác phẩm mang tên gọi truyền kì hoặc có yếu tố truyền kì nhưng chỉ có “Chuyện người con gái Nam Xương” mới xứng đáng với danh “thiên cổ kỳ bút”. Nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” là biểu tượng cho những phẩm chất tốt đẹp nhất của người phụ nữ Việt Nam để ngàn đời sau noi theo.
….
Văn Mẫu Lớp 12: Cảm Nhận Nhân Vật Tràng Sau Khi Có Vợ 2 Dàn Ý &Amp; 5 Bài Văn Mẫu Lớp 12
Dàn ý cảm nhận nhân vật Tràng sau khi có vợDàn ý số 1
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Kim Lân, truyện ngắn Vợ nhặt và tâm trạng của Tràng sau khi lấy vợ.
2. Thân bài
a. Buổi sáng tỉnh dậy
Trong người Tràng thấy êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra, hắn vẫn ngỡ ngàng không tin rằng mình đã có vợ.
Nhận ra xung quanh mình có sự thay đổi lớn vô cùng khác lạ: nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ, gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch.
Tràng nhận thấy cô thị đảm đang, chu đáo khác hẳn với vẻ đanh đá anh thấy trước đây.
b. Trong bữa ăn đầu tiên khi có vợ
Khi bà cụ Tứ bàn về tương lai, Tràng chỉ vâng rất ngoan ngoãn khiến cho không khí trong gia đình ấm áp, hòa hợp mà trước giờ chưa từng thấy.
Khi cầm bát cháo cám đưa lên miệng, hắn chun mặt lại vì chao chát nhưng khi nghe cô thị kể về việc người dân mạn trên đi phá kho thóc Nhật, trong ý nghĩ của hắn hiện lên hình ảnh người dân đi phá kho và lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới.
→ Việc lấy vợ đã làm thay đổi hoàn toàn cuộc sống cũng như suy nghĩ của anh Tràng, từ đó mở đường cho anh đến một tương lai tươi sáng hơn.
3. Kết bài
Khái quát lại tâm trạng của Tràng sau khi có vợ và đánh giá chung về nội dung, nghệ thuật của truyện ngắn.
Cảm nhận về nhân vật Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân
Dàn ý số 2
1. Mở bài
Giới thiệu tác phẩm, nhân vật: Thông qua tình huống nhặt vợ lạ lùng, nhà văn Kim Lân đã bộc lộ được quan niệm nhân đạo sâu sắc khi phát hiện ra vẻ đẹp của con người ngay trong sự túng đói quay quắt, ám ảnh. Nhà văn đã chú ý miêu tả đến tả tâm trạng và những cảm nhận của Tràng trong buổi sáng hôm sau để thể hiện sức mạnh của tình thương, của hạnh phúc có thể làm đổi thay con người
2. Thân bài
– Trong buổi sáng hôm sau, anh Tràng đã có những cảm xúc mới mẻ cùng những cảm nhận lần đầu có
– Tràng nhận ra mọi thứ xung quanh cũng đổi khác “có cái gì vừa thay đổi mới lạ”
– Nhìn cảnh mẹ và vợ đang lúi húi dọn dẹp Tràng, hình ảnh bình dị nhưng lại khiến cho Tràng xúc động, Tràng thấy cuộc sống của mình thau đổi hẳn:
Những suy nghĩ của hắn cũng trở nên trưởng thành, chín chắn hơn.
Tràng cảm thấy mình phải có trách nhiệm với vợ con, với gia đình nhỏ của mình “Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng.
Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”.
– Hình ảnh đoàn người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới hiện lên trong đầu Tràng đã gợi ra sự thay đổi trong nhận thức của nhân vật Tràng.
3. Kết bài
Ý nghĩa của những thay đổi trong suy nghĩ của Tràng: Sự thay đổi của nhân vật Tràng trong buổi sáng hôm sau vợ về nhà đã tiếp nối mạch diễn biến của câu chuyện, đồng thời thể hiện sự trân trọng của nhà văn Kim Lân đối với nhân vật của mình cũng là sự trân trọng sâu sắc với những người dân nghèo khổ nhưng có khát khao sống mạnh mẽ.
Cảm nhận nhân vật Tràng sau khi có vợ – Mẫu 1“Kim Lân là người một lòng, một dạ đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống thôn dã” (Phan Ngọc). Vâng, khi nhắc đến tác phẩm Vợ Nhặt nổi bật là hình ảnh nhân vật Tràng sẽ thấy rõ chính tình yêu đặt nơi quê hương quá đậm sâu đã khiến cho những lời văn của Kim Lân da diết, chân thực tái hiện về con người và nông thôn. Nghệ thuật miêu tả nhân vật của nhà văn rất thành công, tâm lí của nhân vật Tràng sau khi lấy vợ được Kim Lân thể hiện rất hay, đặc biệt.
Một anh chàng ngoài 30 tuổi nhưng vẫn chưa có vợ, ngật ngưỡng bước đi trong ánh chiều tàn chính là Tràng trong Vợ Nhặt. Tràng có thân hình to lớn, vạm vỡ khỏe khoắn, cặp mắt ti hí, hàm răng bạch ra, đầu trọc lóc tuy xấu xí nhưng tâm tính thì rất hiền lành, tốt bụng, thân thiện được bọn trẻ con trong làng thích. Hài hòa với ngoại hình, Tràng sống trong một căn nhà tồi tàn, lụp xụp có mảnh vườn lổn nhổn cỏ dại cùng người mẹ già. Trong xã hội lúc đó những người nghèo khó được xếp vào hàng dân ngụ cư, bị kinh thường thì lúc đó Tràng là người được xem như thế.
Giữa nạn đói năm đó, Tràng đẩy xe thóc ra tình thì bắt gặp mấy chị ngồi nhặt thóc, Tràng buông lời chọc ghẹo: “Muốn ăn cơm trắng mấy giờ này, thì lại đây mà đẩy xe bò với anh nì…” Bỗng có người đàn bà đến giúp đỡ anh và liều lĩnh theo anh về nhà. Hắn đã quên cô nàng này bởi hai người chưa kịp quen nhau. Và rồi họ gặp lại nhau trong lần Tràng đẩy xe thóc lên tỉnh, trả thóc xong ngồi uống nước thì bỗng thấy người đàn bà kia bay đến mắng sa sả. Thị quá rách rưới, thân hình gầy sọp hẳn đi nên anh không nhận ra, vì bản tính tốt bụng nên anh sẵn sàng mời bánh đúc vì Thị quá đói không cần sĩ diện. Tràng nửa giỡn nửa thật buông lời thì không ngờ người đàn bà ấy tự nguyện theo về làm vợ. Mặc dù gia đình cũng đang rất nghèo đói nhưng Tràng không bận tâm, liều lĩnh chấp nhận cô gái này.Trong cái đói triền miên đó, một người vừa xấu xí lại nghèo khó như Tràng không ai có thể hình dung được hắn có thể có vợ.
Tràng một cách tình cờ và đầy trớ trêu, người đàn bà xa lạ đó đã xáo động cuộc sống và tâm tư khiến anh trở nên tốt đẹp hơn. Sáng hôm sau khi dẫn cô gái ấy về nhà Tràng thức dậy đầy sảng khoái. Nhìn ngắm nhà cửa tươm tất, sạch sẽ hắn phấn chấn hơn, cả mẹ cậu cũng vui mừng. Hạnh phúc đôi khi chỉ cần giản dị như thế, mặc cho gia đình đang chìm trong cảnh nghèo khó. Tràng nảy sinh cái suy nghĩ sẽ yêu thương, có trách nhiệm với gia đình, sinh con đẻ cái. Tràng tin tưởng vào một tương lai tươi sáng dù nạn đói tối tăm vẫn đang bủa vây.
Bữa ăn sáng đầu tiên trong gia đình Tràng của Thị, mọi người đều vui vẻ cười nói cùng nhau. Thị đón nhận bát cháo từ người mẹ trong vẻ ngạc nhiên, Tràng thì nhăn mặt cay đắng nuốt miếng cám đắng chát, thực trạng của nạn đói lúc bấy giờ. Nhìn ánh mắt Thị tối sầm như bao phủ lên cuộc đời Tràng. Sau đó Thị cất lời nói:“Trên mạn Bắc Giang, Thái Nguyên người ta không chịu đóng thuế nữa mà họ phá kho thóc Nhật chia cho người đói”. Tràng biết đó là Việt Minh. Lúc này Tràng lóe lên suy nghĩ trong đầu là một đoàn người kéo nhau đi trên đê Sộp bên cạnh lá cờ đỏ sao vàng phấp phới. Trong lòng Tràng lóe lên ánh sáng của lá cờ tươi thắm của cách mạng, của những niềm hy vọng của sự đổi thay, giải phóng cuộc đời cơ cực, bi ai đầy tăm tối này.
Khi có Thị mặc dù thêm gánh nặng một người ăn nhưng Tràng không nhìn vào cái khổ đó mà anh luôn suy nghĩ một cách lạc quan, đầy hy vọng. Đời sống của anh Từ ngày có Thị bước vào đời sống của anh có sự vận động từ trong tăm tối nghèo đói vươn ra ngoài ánh sáng đầy hy vọng, tin tưởng.
Việc đưa nghệ thuật miêu tả tâm trạng, cảm xúc của nhân vật không phải ai cũng thể hiện đặc biệt như Kim Lân. Giản dị, nhẹ nhàng không chút phô trương trong từng lớp ngôn từ, khẽ chạm đến người đọc, truyền tải hết nội dung nhà văn đã thể hiện. Dù là nạn đói nhưng tư tưởng nhân đạo được lồng vào tác phẩm một cách tình cờ mà rất ý nghĩa, nhân văn.
Cảm nhận nhân vật Tràng sau khi có vợ – Mẫu 2Vợ nhặt là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân được rút ra từ tập ‘Con chó xấu xí”. Thông qua tình huống nhặt vợ lạ lùng, nhà văn Kim Lân đã bộc lộ được quan niệm nhân đạo sâu sắc khi phát hiện ra vẻ đẹp của con người ngay trong sự túng đói quay quắt, ám ảnh. Nhà văn đã chú ý miêu tả đến tả tâm trạng và những cảm nhận của Tràng trong buổi sáng hôm sau để thể hiện sức mạnh của tình thương, của hạnh phúc có thể làm đổi thay con người.
Trong buổi sáng hôm sau, anh Tràng đã có những cảm xúc mới mẻ cùng những cảm nhận lần đầu có “trong người êm ái lửng lơ như người vừa trong giấc mơ đi ra”. Hạnh phúc đến bất ngờ khiến Tràng vẫn chưa hết bất ngờ. Từ những đổi thay trong cảm xúc, Tràng nhận ra mọi thứ xung quanh cũng đổi khác “có cái gì vừa thay đổi mới lạ”. Khung cảnh nhà cửa, vườn tược gọn gàng, sạch sẽ đã mang đến luồng sinh khí mới xua đi cái ám ảnh đói khát đang bủa vây “Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khum mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc cây ổi đã kín nước đầy ăm ắp”.
Nhìn cảnh mẹ và vợ đang lúi húi dọn dẹp Tràng, hình ảnh bình dị nhưng lại khiến cho Tràng xúc động, Tràng thấy cuộc sống của mình thay đổi hẳn, những suy nghĩ của hắn cũng trở nên trưởng thành, chín chắn hơn, Tràng cảm thấy mình phải có trách nhiệm với vợ con, với gia đình nhỏ của mình “Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”.
Hình ảnh đoàn người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới hiện lên trong đầu Tràng đã gợi ra sự thay đổi trong nhận thức của nhân vật Tràng. Qua hình ảnh ấy đã mang cho người đọc một niềm tin rằng một ngày nào đó anh Tràng sẽ đi theo cách mạng, theo đoàn người đói để đứng lên đấu tranh, đổi thay cuộc sống.
Sự thay đổi của nhân vật Tràng trong buổi sáng hôm sau vợ về nhà đã tiếp nối mạch diễn biến của câu chuyện, đồng thời thể hiện sự trân trọng của nhà văn Kim Lân đối với nhân vật của mình cũng là sự trân trọng sâu sắc với những người dân nghèo khổ nhưng có khát khao sống mạnh mẽ.
Nhân vật Tràng sau khi có vợ – Mẫu 3“Vợ Nhặt” là truyện ngắn được trích trong tập truyện “Xóm ngụ cư” của nhà văn Kim Lân. Câu chuyện kể về nhân vật anh cu Tràng một người nông dân hiền lành chất phác trong nghịch cảnh lại có được hạnh phúc lứa đôi. Không chỉ xây dựng nhân vật thành công qua nét tính cách và ngoại hình, Kim Lân còn khắc họa rất thành công diễn biến tâm trạng của nhân vật này. Đặc biệt thông qua đoạn trích:
“…Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải.
(….)
Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà…”.
Vợ Nhặt được lấy bối cảnh từ nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu 1945 khi mà đất nước ta có đến 2 triệu người chết đói. Nhân dân ta chịu cảnh áp bức một cổ hai tròng. Ở miền Bắc, phát xít Nhật bắt dân ta phải nhổ lúa trồng đay. Thực dân Pháp thì ra sức vơ vét thóc gạo của người nông dân. Hậu quả là đến cuối năm 1945, người dân rơi vào thảm cảnh bi thương khi hàng triệu người bị chết đói. Đây được xem là nạn đói lớn nhất trong lịch sử. Nhưng kì lạ thay ngay cả trong hoàn cảnh đói khát tăm tối nhất khi người ta cận kề bên miệng vực của cái chết thì những con người lao động Việt Nam vẫn lạc quan hướng về tương lai hạnh phúc hơn.
Nhân vật Tràng trong truyện ngắn được miêu tả là một gã trai nghèo khổ. Nghèo đến tột cùng cái nghèo đấy được thể hiện qua “chiếc áo nâu tang”, ngôi nhà thì “vắng teo đứng rúm ró bên mảnh vườn mọc lổm ngổm những búi cỏ dại”. Và Tràng chỉ là một gã kéo xe bò thuê. Đến cái tên của hắn cũng thể hiện sự thô kệch nghèo khó. Ngòi bút của Kim Lân đã khắc họa nhân hình của Tràng một cách rất sống động: “hai mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra”. Bộ mặt thô kệch, thân hình to lớn, vạm vỡ, cái đầu thì trọc lốc… Dưới ngòi bút của Kim Lân, hắn chỉ như một bức chân dung vẽ vội một hình hài được tạo hóa đẽo gọt quá ư sơ sài, cẩu thả. Không chỉ xấu xí mà cái sự nghèo khổ còn khiến cho hắn bị dở tính có tật “vừa đi vừa nói”. Hắn hay “lảm nhảm than thở những điều hắn nghĩ” thỉnh thoảng còn “ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch”.
Trong cái cơn thóc cao gạo kém đó, một người vừa xấu xí lại nghèo như Tràng không ai có thể hình dung được là hắn có thể có vợ. Mà hoàn cảnh lấy được vợ cũng hết sức thú vị. Hắn nhặt được vợ trên đường đi đẩy xe bò trở thóc về nhà. Thị đã theo hắn về nhà sau lời mời chào tưởng như bông đùa và bốn bát bánh đúc ở chợ huyện.
Kim Lân đã dành rất nhiều trường đoạn để miêu tả diễn biến của nhân vật Tràng sau khi nhặt được vợ. Đầu tiên khi nghe những lời hàng xóm xì xầm, bàn tán chê bai:”chao ôi, thời buổi nào còn rước cái của nợ ấy về, có nuôi nổi nhau sống qua ngày không?” Nhưng Tràng nghe thấy thế cũng chỉ “Chậc. Kệ” giờ đây hắn chỉ còn “tình nghĩa với người đàn bà đi kế bên”. Hắn tủm tỉm cười hai mắt sáng lấp lánh mơ về niềm hạnh phúc tương lai.
Buổi sáng hôm sau khi Tràng thức dậy tâm trạng của hắn thực sự thay đổi. Niềm vui lâng lâng trong người khi hắn nhìn thấy nhà cửa dọn sạch sẽ tinh tươm. Mẹ hắn đang nhổ cỏ vườn. Vợ đang quét sân tiếng chổi vang lên đều đều. Bỗng nhiên, hắn cảm thấy yêu thương gắn bó với cái nhà của hắn một cách lạ lùng. Thế là từ đây hắn đã có một gia đình, hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đây. Cái nhà sẽ trở thành nơi che mưa che nắng cho vợ chồng hắn. Một nguồn sung sướng và phấn chấn dâng lên trong lòng Tràng. Lúc này, Tràng cũng biết bổn phận của người đàn ông trong gia đình cần lo lắng cho vợ. Hắn cũng chạy xăm xăm ra giữa sân và tham dự vào một phần giúp tu sửa căn nhà. Chỉ trong một đoạn văn ngắn ngủi mà Kim Lân đã lột tả được tâm trạng của nhân vật Tràng. Từ bất ngờ, bỡ ngỡ cho đến hạnh phúc tột cùng khi biết mình đã có gia đình.
Thông qua đoạn trích trên ta thấy nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc của nhà văn Kim Lân. Với những ngôn từ mộc mạc, giản dị đậm chất nông thôn có thêm sự gia công sáng tạo của nhà văn. Cùng lối kể chuyện hấp dẫn sinh động giúp chúng ta hiểu thêm phần nào về nhân vật anh cu Tràng. Một người nông dân tuy sống trong hoàn cảnh nghèo khó, khổ cực nhưng chưa bao giờ từ bỏ mơ ước về một cuộc sống hạnh phúc sau này. Đó chính là tư tưởng nhân đạo được nhà văn khéo léo lồng ghép vào trong tác phẩm.
Sự thay đổi của nhân vật Tràng sau khi có vợ – Mẫu 4Kho tàng văn học Việt Nam đã ghi dấu ấn của bao nhà văn, nhà thơ. Một trong số đó phải nhắc đến nhà văn Kim Lân. Với đề tài người nông dân, ông đã sáng tác ra nhiều tác phẩm gây được tiếng vang lớn. Một trong số đó phải kể đến truyện ngắn Vợ nhặt và nhân vật Tràng. Hình ảnh của Tràng được khắc họa rõ nét nhất khi Tràng lấy cô thị về làm vợ.
Tràng là một gã trai nghèo khổ, dân cư ngụ, làm nghề đẩy xe bò thuê để nuôi thân và nuôi mẹ già. Chính vì thế, anh bị mọi người coi khinh, chẳng mấy ai thèm nói chuyện, trừ lũ trẻ hay chọc ghẹo khi anh ta đi làm về. Anh có ngoại hình xấu xí, thô kệch, hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn… Đầu cạo trọc nhẵn, cái lưng to rộng như lưng gấu, ngay cả cái cười cũng lạ, cứ phải ngửa mặt lên cười hềnh hệch.
Tuy nhiên, anh chàng lại là người có tấm lòng nhân hậu, phóng khoáng. Giữa cái nạn đói khủng khiếp ấy, anh đã không toan tính mà đón cô thị về làm vợ, nuôi thêm một miệng ăn. Nhưng cũng chính vì có vợ mà tâm lí của Tràng cũng có nhiều thay đổi.
Buổi sáng hôm sau khi Tràng thức dậy tâm trạng của hắn thực sự thay đổi. Niềm vui lâng lâng trong người khi hắn nhìn thấy nhà cửa dọn sạch sẽ tinh tươm. Mẹ Tràng đang nhổ cỏ vườn. Vợ đang quét sân tiếng chổi vang lên đều đều. Bỗng nhiên, anh cảm thấy yêu thương gắn bó với cái nhà của mình một cách lạ lùng. Thế là từ đây Tràng đã có một gia đình, sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đây. Cái nhà sẽ trở thành nơi che mưa che nắng cho vợ chồng anh. Một nguồn sung sướng và phấn chấn dâng lên trong lòng Tràng. Lúc này, Tràng cũng biết bổn phận của người đàn ông trong gia đình cần lo lắng cho vợ. Anh cũng chạy xăm xăm ra giữa sân và tham dự vào một phần giúp tu sửa căn nhà. Chỉ trong một đoạn văn ngắn ngủi mà Kim Lân đã lột tả được tâm trạng của nhân vật Tràng. Từ bất ngờ, bỡ ngỡ cho đến hạnh phúc tột cùng khi biết mình đã có gia đình.
Hình ảnh đoàn người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới hiện lên trong đầu Tràng đã gợi ra sự thay đổi trong nhận thức của nhân vật Tràng. Qua hình ảnh ấy đã mang cho người đọc một niềm tin rằng một ngày nào đó anh Tràng sẽ đi theo cách mạng, theo đoàn người đói để đứng lên đấu tranh, đổi thay cuộc sống.
Nhiều năm tháng qua đi nhưng hình ảnh anh Tràng với những đức tính tốt đẹp vẫn gây ấn tượng sâu sắc trong lòng nhiều thế hệ bạn đọc. Đồng thời, nhà văn Kim Lân cùng tác phẩm Vợ nhặt đã góp phần xây dựng nền văn học Việt Nam giàu đẹp và ý nghĩa hơn.
Tâm trạng nhân vật Tràng sau khi có vợ – Mẫu 5Vợ nhặt là một số các tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Kim Lân được viết dựa trên những cốt truyện có thật. Câu chuyện Vợ nhặt của ông giống như một bức tranh phủ đầy bóng tối về số phận và tình cảnh éo le của những người dân nghèo trong nạn đói. Nhưng ở cuối bức tranh ấy, ta vẫn thấy lóe lên những tia sáng của lòng nhân ái, của hy vọng, của khát khao sống. Đặc biệt sự thay đổi trong tâm trạng của nhân vật Tràng sau khi lấy vợ đã cho người đọc thấy được giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.
Advertisement
Tràng là một anh chàng kéo xe bò thuê, công việc bấp bênh, cuộc sống cực khổ. Anh là một minh chứng điển hình của nạn đói khủng khiếp năm 1945. Những lớp người đang đứng ở ngưỡng cửa của cái đói. Trong thời buổi khốn khó ấy Tràng chả dám nghĩ tới việc sẽ cưới được vợ. Ấy vậy mà cái duyên nó “ vồ “ lấy cái số anh chàng lại “ nhặt “ được vợ. Nghe tưởng chừng vô lí bởi lẽ đời có ai lại nhặt được vợ bao giờ cơ chứ? Chắc hẳn người đàn bà mà Tràng lấy làm vợ ấy cũng đã ở cái ngưỡng đường cùng, bấu víu vào bất cứ thứ gì có thể bấu víu được . Tràng không nhận thức được hoàn cảnh của mình , anh ta chỉ chậc lưỡi theo đúng cách của người hay “ngẩng mặt lên trời cười hềnh hệch”. Anh ta chỉ cảm nhận được sự thay đổi, còn ý nghĩa của nó như thế nào thì anh ta chưa thể hiểu.
Cũng thức dậy như mọi ngày, nhưng sao hôm nay Tràng thấy lạ lắm. Buổi sáng đầu tiên khi có vợ. Tràng trở thành một người hoàn toàn khác hẳn, niềm vui sướng, hạnh phúc tràn ngập trong lòng hắn. Tràng ngạc nhiên trước cảnh tượng nhà cửa: nhìn vợ với mẹ đang quét dọn sân vườn. Một ý nghĩ hạnh phúc đang hiện hữu trong cuộc sống của mình. Lần đầu tiên Tràng được sống trong cảm giác rất người. Tràng cảm thấy trong người êm ái, lửng lơ như vừa đi ra trong giấc mơ. Hạnh phúc đã khiến Tràng trở nên khác lạ hẳn “ bây giờ hắn mới thấy hắn nên người “ ,” Hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này “. Cái gốc của sự thay đổi ấy chính là gia đình, là niềm khát khao hạnh phúc về một mái ấm gia đình ngay cả khi Tràng đang đứng bên bờ vực của cái đói, sự chết chóc.
Song, chi tiết đắt giá nhất của Kim Lân không phải ở đó mà có lẽ là ở câu văn “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì đó để tu sửa lại căn nhà”. Hai chữ “xăm xăm” gợi lên bao nhiêu là niềm hớn hở, háo hức trong tâm hồn và cả trong bước chân của Tràng khi tìm đến hạnh phúc của đời mình. Hành động “xăm xăm” này là một sự thay đổi không chỉ ở dáng đi mà còn thay đổi cả tính cách ở Tràng, từ vô lo, vô nghĩ sang sống có trách nhiệm với gia đình mình. Đó là một đột biến quan trọng, một bước ngoặt thay đổi cả số phận lẫn tình cảm của Tràng . Khiến Tràng trở nên trưởng thành, chín chắn hơn, có trách nhiệm với tổ ấm của chính mình. Đó là điều thật bình dị đối với mỗi con người nhưng đối với Tràng lại có ý nghĩa vô cùng lớn lao trong cuộc đời.
Bữa cơm cưới đầu tiên trông thật thảm hại, chỉ có một cái mẹt rách, một lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối và nồi cháo loãng, mỗi người chỉ được hai lưng. Và khi miếng cháo cám đưa lên miệng đắng chát, nghẹn bứ trong cổ họng cùng với âm thanh tiếng trống thúc thuế dồn dập tức là lúc cuộc sống bị dồn đẩy đến miệng vực của cái đói, cái chết. Trước lời giải thích của vợ với mẹ: “trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy”, Tràng thần mặt ra nghĩ ngợi rồi vỡ lẽ khi nhớ lại hình ảnh đám người đói đi trên con đê hóa ra là Việt Minh. Cùng lúc đó trong óc Tràng hiện lên hình ảnh “lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới”. Sự có mặt của chi tiết nghệ thuật này khiến cho câu chuyện có một cái kết mở, nhờ thế thiên truyện đóng lại nhưng số phận của các nhân vật vẫn tiếp tục được vận động theo hướng lạc quan đi lên chứ không bế tắc như anh Pha, chị Dậu, Chí Phèo,…
Trước những tình cảnh éo le, cảm động ấy thì “Vợ nhặt” như một khúc nhạc đầy bi thương và xót xa trước những gì lẽ ra là cao quý lắm đối với con người. Từ tình huống truyện ấy mà tác phẩm này cùng một lúc thể hiện được những giá trị đặc sắc. Qua tác phẩm, Kim Lân đã gửi gắm những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, mới mẻ. Nghệ thuật đặt nhân vật trong tình huống độc đáo, éo le, cảm động cùng với phẩm chất, tính cách của nhân vật được thể hiện qua lời ăn, tiếng nói hàng ngày.
Qua truyện ngắn “Vợ nhặt” ta thấy được cách xây dựng hình tượng nhân vật của nhà văn Kim Lân hết sức đặc biệt, mỗi nhân vật đều bộc lộ được những tính cách, phẩm chất khác nhau đại diện cho lớp người trong xã hội cũ và Tràng là một trong những nhân vật đó. Tác phẩm đã thành công khi miêu tả diễn biến tâm trạng cũng như lời nói, tính cách của Tràng để “Vợ nhặt” mang một tầm cao mới và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc đến sau này.
Văn Mẫu Lớp 9: Nghệ Thuật Miêu Tả Nhân Vật Trong Truyện Kiều Dàn Ý &Amp; 4 Bài Văn Mẫu Lớp 9 Hay Nhất
1. Mở bài:
Giới thiệu về tác phẩm: Truyện Kiều là một áng văn chứa nhiều giá trị, lưu truyền muôn đời.
Giới thiệu về nghệ thuật miêu tả nhân vật: nghệ thuật miêu tả nhân vật là một trong những điểm sáng. Qua những đoạn trích được học trong chương trình văn 9 kì 1 như “Chị em Thúy Kiều”, “Cảnh ngày xuân”, “Mã Giám Sinh mua Kiều”, “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã phần nào chứng minh điều đó.
2. Thân bài:
a, Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật:
* Thủ pháp ước lệ tượng trưng: Đây là thủ pháp miêu tả được sử dụng trong văn học Trung đại, lấy vẻ đẹp thiên nhiên tả vẻ đẹp con người. Thiên nhiên là trung tâm, là chuẩn mực của cái đẹp.
– Trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”: Giới thiệu chị em Thúy Kiều: “đầu lòng hai ả tố nga”, “mai cốt cách tuyết tinh thần” – mĩ từ ca ngợi 2 cô gái đẹp người đẹp nết.
Tả Thúy Vân: dùng hình ảnh mây, tuyết, hoa, ngọc để nói về vẻ đẹp trong sáng, hiền hậu, đoan trang của Vân.
Tả Thúy Kiều: dùng hình ảnh “làn thu thủy, nét xuân sơn” để tả vẻ đẹp đôi mắt của Kiều, ca ngợi tài năng của Kiều “vốn tính trời”, “nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương”.
– Trong đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều”, tác giả dùng hình ảnh hoa để tả Kiều: “lệ hoa mấy hàng”, “Nét buồn như cúc điệu gầy như mai”, vừa tả người đẹp, vừa thể hiện nỗi tủi nhục khi phải bán mình chuộc cha.
– Trong đoạn trích Cảnh ngày xuân”: Tả nam thanh nữ tú đi hội đạp thanh là “yến anh”, “tài tử”, “giai nhân”, vẻ đẹp của con người hòa với cảnh sắc thiên nhiên, khiến thiên nhiên thêm sinh động.
⇒ Nhận xét:
– Về ngôn ngữ: tác giả sử dụng ngôn từ trang trọng, mĩ miều, hình ảnh tươi đẹp, trong sáng.
– Hình ảnh: lựa chọn những hình ảnh đẹp trong tự nhiên.
– Qua miêu tả thấy được tuyến nhân vật chính diện, cho thấy tình cảm yêu mến, ngưỡng mộ của tác giả đối với nhân vật.
* Thủ pháp tả thực: tả Mã Giám Sinh
– Giới thiệu nhân vật: “Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh/ Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần”.
– Ngoại hình, tuổi tác: “Quá niên trạc ngoại tứ tuần/ Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”.
– Cho thấy phẩm chất con người qua một chuỗi hành động:
Không có tôn ti trật tự, con người không có giáo dục: “Trước thầy sau tớ lao xao”, “Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”.
Bản chất chợ búa, con buôn: “Đắn đo cân sắc cân tài” bắt Kiều đàn hát, làm thơ để xem tài, sau khi ưng ý mới “tùy cơ dặt dìu” hỏi giá, tiếp tục “Cò kè bớt một thêm hai”, coi Kiều như một món hàng và trả giá bốn trăm lượng.
⇒ Nhận xét:
– Tác giả sử dụng ngôn từ tả thực, chỉ dùng 2 câu để tả ngoại hình nhân vật, còn lại tả hành động để cho thấy bản chất con người nhân vật Mã Giám Sinh; sử dụng nhiều tính từ như “lao xao”, “sỗ sàng”, đặc biệt động từ “tót” cho thấy một hành động vô phép tắc, dáng ngồi xấu xí.
– Qua miêu tả thấy được nhân vật phản diện, thể hiện sự khinh ghét của tác giả
b, Nghệ thuật miêu nội tâm nhân vật: qua đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
* Thủ pháp tả cảnh ngụ tình
– Cảnh vật được nhìn qua con mắt của kẻ đang đau buồn như Thúy Kiều tràn ngập 1 màu ảm đạm, u ám, cô liêu: 8 câu thơ cuối bài, cảnh vật được nhìn bằng sự cô đơn, sợ hãi của Kiều, tác giả miêu tả tâm trạng Kiều thông qua những hình ảnh thiên nhiên như thuyền, cánh hoa trôi trên dòng nước, gió thét, sóng gào.
* Thủ pháp độc thoại nội tâm
– Tác giả tả tâm trạng nhớ thương của Kiều với Kim Trọng, với cha mẹ thông qua 8 câu độc thoại nội tâm của Kiều, từ nhớ thương người yêu đến thương xót cho phẩm hạnh, cho mối tình của hai người; từ lo lắng cho cha mẹ đến xót xa đau buồn nghĩ mình khó quay về gặp cha mẹ nữa.
c, Nhận xét về nghệ thuật miêu tả nhân vật:
– Dùng cách gián tiếp để miêu tả nhân vật chính diện: dùng thiên nhiên tả vẻ đẹp, dùng thiên nhiên tả nội tâm; giọng thơ nhẹ nhàng, trang trọng, ưu ái, thương xót.
– Dùng cách trực tiếp để tả nhân vật phản diện: tả trực tiếp ngoại hình, tính cách, hành động, không sử dụng hình ảnh thiên nhiên trong miêu tả; giọng thơ thể hiện thái độ tức giận, khinh ghét.
– Qua miêu tả dự đoán trước số phận nhân vật.
3. Kết bài:
Nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Du qua 1 vài đoạn trích đã được học: kết hợp miêu tả với thể hiện tình cảm bản thân, sử dụng những thủ pháp nghệ thuật truyền thống xen với cảm hứng nhân đạo mới.
Cho thấy tài năng của Nguyễn Du.
Truyện Kiều một tuyệt tác không chỉ của văn học Việt Nam mà còn là của văn học thế giới. Sự thành công của tác phẩm không chỉ là ở nội dung hấp dẫn, truyền tải nhiều giá trị nhân văn tốt đẹp. Mà còn ở hình thức nghệ thuật đặc sắc, một trong những nét nghệ thuật đó chính là nghệ thuật xây dựng chân dung nhân vật. Bằng nét vẽ ước lệ cho nhân vật chính diện và nét vẽ thực cho nhân vật phản diện, Nguyễn Du đã xây dựng nên những chân dung nghệ thuật đặc sắc.
Trước hết, khi xây dựng nhân vật chính diện, những con người có phẩm chất đức hạnh tốt đẹp, Nguyễn Du sử dụng bút pháp ước lệ, tượng trưng để làm nổi bật vẻ đẹp của họ. Là chàng thư sinh Kim Trọng hiện lên thật đẹp đẽ, đúng cốt cách của một kẻ sĩ, người quân tử:
Còn chàng Từ Hải lại hiện lên vô cùng uy dũng, mang khí chất của bậc anh hùng, chọc trời khuấy nước: “Râu hùm, hàm én, mày ngài,/ Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”. Nhưng bức tranh chân dung đẹp đẽ nhất chính là khi miêu tả chân dung hai nàng Kiều, đây là những chân dung mang tính chất dự đoán số phận. Vân mang vẻ đẹp đầy đặn, phúc hậu: “Vân xem trang trọng khác vời/ Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang/ Hoa cười ngọc thốt đoan trang/ Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da” . Nguyễn Du sử dụng hình ảnh ước lệ: khuôn trăng, nét ngài, hoa cười, ngọc thốt để miêu tả vẻ đẹp nàng Vân. Thúy Vân có khuôn mặt đầy đặn như trăng rằm, nụ cười đoan trang duyên dáng. Vẻ đẹp đó khiến tạo hóa thua nhường, từ đó cũng dự báo cuộc đời êm đẹp, bình lặng, hạnh phúc của nàng.
Với nhân vật Thúy Kiều, Nguyễn Du sử dụng bút pháp gợi tả, chỉ chấm phá vài nét nhưng gợi lên cái thần thái, cốt cách của nhân vật:
Vẻ đẹp của nàng là vẻ sắc sảo, mặn mà, nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành làm ai cũng phải mê đắm. Không giống như Thúy Vân, đi miêu tả chi tiết, ở Thúy Kiều Nguyễn Du chỉ miêu tả đôi mắt của nàng, đôi mắt nàng được ví như làn nước mùa thu trong xanh, tĩnh lặng mà ẩn chứa biết bao cảm xúc, đôi lông mày thanh tú như dáng núi mùa xuân. Chính cách gợi tả này đã khiến cho vẻ đẹp của Kiều càng trở nên sắc sảo hơn. Vẻ đẹp của nàng khiến hoa ghen, liễu hờn, tạo hóa cũng phải ghen tuông, từ đó dự báo cuộc đời nhiều bất hạnh, sóng gió. Và cuộc đời 15 năm phiêu bạt đã cho thấy chiêm nghiệm của Nguyễn Du: “Lạ gì bỉ sắc thư phong/ Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”.
Nếu như đối với các nhân vật chính diện, Nguyễn Du sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng, chân dung nhân vật hiện lên vô cùng đẹp đẽ, mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp, thì đến với các nhân vật phản diện, ông lại sử dụng bút pháp tả thực, lột trần bộ mặt xảo trá của chúng. Mã Giám Sinh hiện lên là con buôn chính hiệu:
Là người đã ngoài bốn mươi tuổi, theo tục lệ xưa thường sẽ để râu, nhưng tên Mã Giám Sinh lại mày râu nhẵn nhũi, kệch cỡm, lố bịch, cố tình ăn mặc trẻ trung như một người con trai mới lớn. Hai từ nhẵn nhụi, bảnh bao đã lột trần bản chất thực của hắn, đồng thời thể hiện thái độ mỉa mai, châm biếm của tác giả. Hắn cố tình dùng quần áo bề ngoài để che đậy bản chất xấu xa ở bên trong nhưng những hành động cử chỉ của hắn thì không thể thay đổi: “ghế trên ngồi tót” hết sức thiếu văn hóa. Không chỉ vậy, bản chất con buôn còn được bộc lộ khi bắt Kiều gảy đàn làm thơ để hắn kiểm chứng: “Đắn đo cân sắc, cân tài/ Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ” . Rồi mua bán nàng như một món hàng, cò kè bớt một thêm hai để được giá mà hắn cho là xứng đáng nhất.
Còn Tú Bà, chỉ cần đúng bốn câu thơ duy nhất, Nguyễn Du đã cho người đọc thấy sự xấu xa, bản chất đểu giả của thị:
Bản chất buôn thịt bán người, lấy đêm làm ngày đã lộ rõ trên làn da nhợt nhạt, trong dáng người to lớn đẫy đà của mụ. Thêm vào đó là điệu bộ lả lơi, chào hỏi khách đã cho chúng ta hình dung đầy đủ về bản chất xấu xa, cũng như công việc dơ bẩn của mụ: lừa lọc, đưa biết bao người con gái hiền lành nết na vào cảnh cực khổ, phải bán rẻ nhân phẩm của mình.
Với biệt tài xây dựng và miêu tả chân dung nhân vật, Nguyễn Du đã xây dựng thành công hai tuyến nhân vật chính diện và phản diện. Qua những chân dung nhân vật này, ông cũng gửi gắm thái độ trân trọng ngợi ca với những kẻ quốc sắc, bậc thiên tài trong xã hội. Đồng thời cũng thể hiện thái độ mỉa mai, châm biếm, căm ghét với những kẻ xấu xa, độc ác.
Nếu như ai đã từng đọc Truyện Kiều của Nguyễn Du, có lẽ đều tâm phục nghệ thuật dẫn truyện tài tình, cách sử dụng ngôn ngữ bác học và bình dân một cách linh hoạt, điêu luyện và đặc biệt là nghệ thuật miêu tả nhân vật thật độc đáo và gần với đời sống. Nói về nghệ thuật miêu tả nhân vật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du có ý kiến cho rằng: “Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã rất tài tình trong việc khắc hoạ nhân vật. Nhưng tác giả không chỉ dừng lại ở dáng vẻ bề ngoài, với ông, tả ngoại hình là để giúp cho người đọc hình dung rõ hơn bản chất, tính cách bên trong của nhân vật”.
Nguyễn Du đã xây dựng nhân vật của mình tập trung ở hai dạng chính theo quan điểm truyền thống là : nhân vật phản diện và nhân vật chính diện. Nếu ở nhân vật chính diện, tác giả thường sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng, xây dựng nhân theo lối lí tưởng hoá thì ở nhân vật phản diện, tác giả thường sử dụng bút pháp tả thực để khắc hoạ. Dù miêu tả nhân vật ở khía cạnh nào, thì ngòi bút của ông cũng đạt đến trình độ bậc thầy về ngôn ngữ, bởi nhân vật hiện lên rất sống động và chân thực.
Về nhân vật chính diện, khi miêu tả Thuý Vân, Thuý Kiều tác giả đã sử dụng bút pháp ước lệ, hình ảnh ẩn dụ tượng trưng, thủ pháp tiểu đối để gợi tả vẻ đẹp chung của hai nàng. Hai nàng có dáng vẻ mảnh mai thanh tao như cây mai “Mai cốt cách”, tâm hồn trong trắng, ngây thơ như tuyết “Tuyết tinh thần”. Vẻ đẹp của hai nàng đã đạt đến độ tròn trịa, hoàn mĩ “mười phân vẹn mười”. Nhưng mỗi người lại mang một nét đẹp riêng không giống nhau là “mỗi người một vẻ”. Chân dung Thuý Vân được nhà văn Nguyễn Du miêu tả là một người con gái có vẻ đẹp hài hòa, cân đối :
Hai chữ “trang trọng” nói nên vẻ đẹp cao sang, quý phái khác thường của nàng. Vẻ đẹp trong sáng, quý phái ấy được Nguyễn Du so sánh với những hình tượng đẹp nhất của thiên nhiên như trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết. Nàng có khuôn mặt dày đặn, tròn trịa như mặt trăng, đôi lông mày sắc nét, miệng cười tươi như hoa, tiếng nói trong như ngọc, làn da trắng mịn hơn tuyết, mái tóc óng ả hơn mây. Nàng mang một vẻ đẹp trong sáng, phúc hậu, hài hòa khiến thiên nhiên phải “nhường”, “thua”. Qua đó, nhà thơ Nguyễn Du đã khắc hoạ bức chân dung của Thuý Vân gợi lên một tương lai tươi sáng, bình yên, hạnh phúc.
Vẫn với bút pháp ước lệ, tượng trưng tả vẻ đẹp của Thuý Kiều tác giả lại chỉ miêu tả một cách khái quát mà không đi vào chi, khi miêu tiết như Thuý Vân. Nhà thơ chủ yếu đặc tả đôi mắt của nàng. Bởi đôi mắt vốn dĩ được coi là cửa sổ của tâm hồn, qua đôi mắt, những vẻ đẹp về tâm hồn, trí tuệ của Thuý Kiều được thể hiện một cách đặc biệt.
Thuý Kiều được miêu tả có đôi mắt long lanh, trong sáng, linh hoạt như nước mùa thu, đôi lông mày thanh tú như dáng núi mùa xuân khiến vẻ đẹp của nàng khiến thế gian phải “nghiêng nước nghiêng thành”. Vẻ đẹp của nàng khiến thiên phải đố kị, hờn ghen. Với cách tả ấy, Nguyễn Du đã vẽ lên bức chân dung của nàng Kiều đẹp như tranh hoạ, vẻ đẹp sắc sảo, rạng rỡ, đài các, kiêu sa nhưng qua đó cũng dự báo về một kiếp hồng nhan truân chuyên, đầy trắc trở, chông gai.
Khi miêu tả chàng Kim Trọng, tác giả lại dùng những đài từ uyên bác để diễn tả xuất thân quyền quý, sự hào hoa phong nhã của nhân vật :
Còn đối với Từ Hải, bậc anh hùng trượng nghĩa, tác giả đã mượn những hình ảnh “Râu hùm, hàm én, mày ngài/ Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”, để lột tả những đường nét cường tráng, thần thái uy dũng của một trang hảo hán.
Ngược lại đối với những nhân vật phản diện như Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Tú Bà, tác giả lại dùng những ngôn từ rất bình dân nhưng đã lột tả bản chất thủ đoạn, ranh ma của nhân vật. Với Mã Giám Sinh đôi dòng giới thiệu :
tác giả đã lột tả bản chất đều giả, một con người có cách cư xử vô học. Mặc dù đã “trạc ngoại tứ tuần” nhưng dung mạo lại “nhẵn nhụi, bảnh bao” cho thấy tính cách chải chuốt, ăn diện quá mức của y. Bản chất của một con buôn cũng được thể hiện rõ qua cách “Cò kè bớt một thêm hai” cho thấy y là một kẻ rất thủ đoạn, xảo trá và kệch cỡm. Với nhân vật Sở Khanh, một kẻ “bạc tình nổi tiếng lầu xanh”, tác giả dựng lên hình ảnh của một kẻ “Hình dung chải chuốt áo khăn dịu dàng” để đi quyến rũ những “cành phù dung”. Khi miêu tả nhân vật Tú Bà, cái hình dáng quá khổ “đẫy đà” qua màu da “nhờn nhợt” đã tố cáo cái nghề buôn bán, kinh doanh trên thân xác của người phụ nữ, khiến người ta mới đọc và hình dung qua một chút thôi cũng đã đủ thấy để ghê tởm. Không những thế mụ còn độc ác, nanh nọc, đanh đá, khi đay nghiến “Phải làm cho biết phép tao” và sấn sổ và đánh Kiều khiến cho người ta phải kinh hãi. Có thể thấy, đối với những nhân vật phản diện, cách sử dụng ngôn từ bình dân tác giả đã khiến nhân vật phải bộc lộ rõ bản chất của mình.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Truyện Kiều không chỉ được tác giả khắc hoạ qua việc miêu tả chân dung bên ngoài, mà thành công hơn cả chính là việc miêu tả thế giới nội tâm nhân vật vô cùng phong phú, tinh tế, làm cho nhân vật có đời sống riêng, có sức sống riêng. Trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” qua việc miêu tả cảnh ngộ cô đơn buồn tủi đáng thương, nỗi nhớ người thân da diết, tác giả đã khắc hoạ sâu sắc tấm lòng chung thuỷ, hiếu thảo và vị tha của nàng. Qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm, nỗi lòng đau đáu về lương duyên với chàng Kim chẳng khi nào nguôi ngoai :
Hay khi miêu tả tính cách của Hoạn Thư, tác giả chẳng ngại ngần mà thể hiện rõ thái độ của mình :
Bước từ trang thơ qua đến đời thực, hệ thống nhân vật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du còn rất nhiều, nhưng có lẽ chỉ qua vài nét phác hoạ về nhân vật chính diện và nhân vật phản diện bằng ngôn từ điêu luyện, tài năng của Nguyễn Du đã được nhân loại khẳng định là bậc “đại thi hào”. Nhà phê bình Hoài Thanh đã phải rất tâm đắc khi viết nên những lời nhận xét sau “Nguyễn Du đã tái tạo lại một cuộc sống đương thời và sáng tạo ra một thế giới có thật. Trong thế giới ấy có những con người rất sống, rất thật khiến nhiều khi người ta không còn nhớ đó là những con người trong tiểu thuyết”.
Bài thơ Truyện Kiều là tác phẩm nổi bật trong chương trình ngữ văn lớp 9, không chỉ có bài làm làm văn Nghệ thuật miêu tả nhân vật trong Truyện Kiều, mà thầy cô và học sinh còn có thể tìm hiểu các bài làm văn mẫu khác như Nguồn gốc và giá trị của truyện Kiều, Vẻ đẹp ngôn từ trong truyện Kiều, Phân tích hình ảnh thiên nhiên trong truyện Kiều, Phân tích nhân vật Thuý Kiều để làm nổi bật giá trị nhân đạo của Truyện Kiều, hay cả các phần Soạn bài Truyện Kiều cùng rất nhiều kiến thức hữu ích khác.
Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là kiệt tác có một không hai trong lịch sử văn chương Việt Nam. Tài năng xuất sắc của tác giả tạo nên giá trị muôn đời cho Truyện Kiều – kết tinh của tinh hoa Tiếng Việt giàu và đẹp. Nguyễn Du xứng đáng là bậc thầy về sử dụng ngôn ngữ, về tả cảnh, tả người, đặc biệt là miêu tả tâm lí nhân vật đã đạt tới trình độ điêu luyện và tinh tế.
Trong đoạn trích Trao duyên, nhà thơ tập trung thể hiện diễn biến tâm trạng phức tạp của Thúy Kiều. Sau cơn vạ gió tai bay bất kì, tổ ấm của gia đình nàng tan tác. Cha và em trai bị đánh đập, giam cầm; của cải bị lũ đầu trâu mặt ngựa vơ vét sạch sành sanh. Để đáp ứng yêu cầu của lũ tham quan ô lại, Thúy Kiều chỉ còn một cách là bán mình để lấy ba trăm lạng vàng chuộc cha.
Suốt đêm: Một mình nàng ngọn đèn khuya, Áo đầm giọt lệ, tóc se mái sầu, Kiều sống với tâm trạng đầy sóng gió và mặc cảm. Trước sự thực phũ phàng là ngày mai nàng sẽ thuộc về tay Mã Giám Sinh, Thúy Kiều cảm thấy như chính mình là người có lỗi trong chuyện tình duyên dang dở, là thủ phạm gây ra nỗi bất hạnh cho Kim Trọng. Nàng thương mình một, thương người yêu mười nên cắn răng chấp nhận số phận đen bạc, cố quên bản thân để nghĩ đến Kim Trọng:
Thúy Kiều mang nặng mặc cảm là người có lỗi. Nàng tự hờn trách, dằn vặt vì mình khăng khít khiến người dở dang. Đúng ra là Thúy Kiều, Kim Trọng cùng chủ động đến với nhau, tự nguyện yêu và gắn bó với nhau và cả hai phải được sống hạnh phúc. Kiều có mặc cảm đó là vì nàng luôn nghĩ đến người khác, ngay cả trong lúc đau thương nhất.
Đối diện với với gia cảnh tan tác và tâm trạng rối bời, nàng chỉ biết âm thầm khóc than cho duyên phận, cho số kiếp không may. Đắn đo, suy tính trước sau, nàng thấy chỉ có một cách có thể cứu vãn được phần nào mối lương duyên của mình. Đó là nhờ em gái nối duyên với chàng Kim. Nghĩ là làm, Thúy Kiều đã trao duyên cho Thúy Vân khi cô em gái vừa chợt tỉnh giấc xuân.
Dường như Nguyễn Du đã hóa thân vào Thúy Kiều để thấu hiểu, thông cảm và xót thương cho nàng, thay nàng nói lên những lời làm rung động tâm can người nghe:
Kiều thẹn thùng khó nói vì còn vướng mối tơ duyên với chàng Kim – mối tình đầu trong sáng, nồng nàn mà chỉ mới hai người biết với nhau. Ngỏ chuyện riêng tư với người khác, dù là em gái đi nữa thì cũng không phải dễ dàng. Hơn nữa, mối tình này đã gắn bó đến mức keo sơn, thề nguyền vàng đá dưới Vầng trăng vằng vặc giữa trời. Vì thế mà nó thiêng liêng, sâu nặng, khó có thể đổi thay.
Kiều rơi vào tình thế khó xử, không nói ra không được, mà nói ra thì e ngại. Nàng băn khoăn, ngập ngừng mãi rồi mới thốt được một câu khiến người ngoài cuộc nghe cũng phải mủi lòng:
Tội nghiệp thay cho Kiều! Nguyễn Du hiểu tường tận tâm thế, vị thế của nàng lúc này nên mới dùng những từ hàm chứa nỗi đau đớn, chua xót như cậy (tin cậy mà nhờ vả), chịu lời, lạy, thưa. Kiều nói với em gái (bề dưới) mà như nói với bề trên, hơn thế – như một vị ân nhân. Nàng dẫn dắt Thúy Vân đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Sau phút ban đầu khó nói, giờ đây, nàng bộc bạch hết sức chân thành với Thúy Vân về mối tình dang dở của mình:
Nguyễn Du đã đặc tả tâm trạng đau khổ của Thúy Kiều khi nghĩ tới người yêu giờ đây đang thăm thẳm tận đất Liêu Dương, chưa hề biết đến sự tan vỡ bất ngờ của tình yêu đôi lứa. Kiều có ý coi đây là món nợ tình, kiếp này chưa trả được thì đành mang khối tình theo xuống tuyền đài chưa tan. Thúy Kiều tội nghiệp biết chừng nào và cũng cao cả biết chừng nào!
Trong quá trình diễn biến tâm lí của Thúy Kiều có rất nhiều mâu thuẫn. Nàng chủ động nhờ cậy em gái: Xót tình máu mủ thay lời nước non, thay mình đền đáp nghĩa tình với Kim Trọng. Tin em nên nàng trao lại cả những kỉ vật quý giá:
Thế nhưng chỉ sau giây phút tưởng tượng ra cái chết thê thảm thịt nát xương mòn của mình, mình chỉ còn là mảnh hồn oan vật vờ nơi ngọn cỏ, lá cây mỗi lúc hiu hiu gió thì Kiều lại tiếc nuối và đớn đau gấp bội. Đúng là có mâu thuẫn nhưng đó là mâu thuẫn tất yếu của tấm lòng vị tha đáng quý của Kiều. Nàng lo cho người yêu trước rồi mới nghĩ đến mình và nàng thực sự hoang mang, sợ hãi trước tương lai mù mịt. Nỗi đau tinh thần đã quá mức chịu đựng của thể xác người con gái liễu yếu đào tơ:
Nguyễn Du với ngòi bút kì tài đã miêu tả thành công một cơn khủng hoảng, một trận sóng gió tơi bời trong lòng người con gái tài hoa bạc mệnh. Nàng đau đớn đâu phải vì mình, cho mình mà vì người yêu, cho người yêu. Đức vị tha, nhân ái cao cả ấy của Thúy Kiều khiến cho người đời càng cảm phục và yêu mến nàng hơn.
Đoạn trích Nỗi thương mình kể về chuyện sau khi Mã Giám Sinh đưa Kiều đến lầu xanh của Tú Bà, nàng đã quyết liệt chống lại âm mưu tàn ác của chúng là biến nàng thành kĩ nữ. Nàng định quyên sinh để thoát khỏi thân phận nhuốc nhơ, nhưng vì ngây thơ và cả tin, nàng đã bị tên ma cô Sở Khanh lừa dối, rơi vào cạm bẫy của Tú Bà và buộc phải ra tiếp khách. Tình cảnh trớ trêu khiến nàng chìm đắm triền miên trong nỗi tủi hổ và cay đắng:
Chỉ qua bốn câu thơ, Nguyễn Du đã miêu tả thật sống động bức tranh sinh hoạt đặc trưng ở chốn lầu xanh. Những ẩn dụ như bướm lả ong lơi, lá gió cành chim, hình ảnh Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm và cả điển tích văn chương về Tống Ngọc, Trường Khanh (hai khách phong lưu nổi tiếng) đã phản ánh thú vui trụy lạc chốn lầu xanh. Giữa cái không khí ồn ào, náo nhiệt, lả lơi, dập dìu, sớm đưa, tối tìm ấy, nổi bật lên một nàng Kiều cô đơn, buồn bã:
Hai câu thơ tả tâm lí này cũng có thể coi là tuyệt bút. Nhịp điệu, âm hưởng và phép điệp từ kết hợp hài hoà, tự nhiên đã diễn tả thật chính xác tâm trạng trĩu nặng sầu thương của Thúy Kiều. Đêm khuya thanh vắng, nỗi sầu thương ấy như hiện rõ thành hình, thành khối là Thúy Kiều bằng xương bằng thịt. Đọc hai câu thơ trên, ai cũng phải ngậm ngùi rơi lệ.
Nỗi thương mình là cảm xúc chủ đạo trong đoạn trích này. Thúy Kiều buộc phải xa cha mẹ, xa tổ ấm để bước lên cỗ xe định mệnh: Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh, lao đi trên con đường mịt mù, vô định. Nàng chấp nhận: Thôi đành nhắm mắt đưa chân, Để xem con Tạo xoay vần đến đâu nhưng không thể ngờ rằng mình lại rơi và chốn hang hùm đầy những kẻ bán thịt buôn người trâng tráo và đê tiện. Nàng đang phải sống trong cảnh Chân trời góc biển bơ vơ, không nơi nương tựa, không người an ủi, vỗ về, chia sẻ cho vơi bớt nỗi đau. Mình lại thương mình xót xa là vậy!
Nguyễn Du không chỉ dừng lại ở mức “đọc” được tâm trạng Thúy Kiều mà sâu hơn thế, thi sĩ thực sự thông cảm và rung động trước nỗi khổ tâm của nàng, đồng thời truyền sự rung động mãnh liệt ấy đến trái tim, khối óc người đọc, tạo nên mối dây đồng tình, đồng điệu.
Thúy Kiều cay đắng nghĩ tới sự tương phản giữa quá khứ tươi đẹp, hạnh phúc và hiện thực đen tối, phũ phàng:
Đằng sau những ngôn từ, hình ảnh ước lệ hoa mĩ ấy là cơn uất hận không nguôi, là những câu hỏi day dứt, dằn vặt muốn thấu tới trời xanh. Bất công thay, trớ trêu thay là Trời già tai ác! Thực ra, Tạo hóa chẳng nỡ đày đọa Thúy Kiều – người con gái tài sắc vẹn toàn, mà chính là cái thế lực vạn ác trong xã hội đã dìm nàng xuống bùn đen nhơ nhớp.
Đau khổ đã biến Kiều thành vô tri vô giác trước những kẻ ăn chơi trụy lạc xung quanh nàng:
Hai câu thơ cuối đúc kết tâm trạng cô đơn, đau khổ của Thúy Kiều. Nàng chỉ thực sự sống với nỗi đau thấm thía của mình. Viết được những câu thơ như thế, chứng tỏ ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật của đại thi hào Nguyễn Du xứng đáng là bậc thầy trong lịch sử văn chương nước ta.
Trong đời mình, Nguyễn Du đã từng gặp, từng biết nhiều loại người. Có người tốt đáng thương, đáng mến, song cũng có những kẻ xấu xa, đáng ghét. Ông thấu hiểu tính cách và tâm lí của họ đến mức khi cầm bút vẽ lên hạng người nào là đúng chân dung, tính cách và tâm lí của hạng người ấy. Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật, nhất là miêu tả tâm lí nhân vật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều đã tạo nên cho tác phẩm giá trị muôn đời.
Xanh Bơ-vơ đã nói, đại ý: nếu chọn nhà văn tiêu biểu cho từng nước, nước Anh sẽ không ngần ngại chọn Secxpia, nước Pháp – Môlie và nước Đức – Gớt. Còn tôi, nếu có quyền được chọn, tôi sẽ không đắn đo nêu tên Nguyễn Du cùng kiệt tác Đoạn trường tân thanh. Đó là một trong những đỉnh cao chói ngời của nền văn học Việt Nam, nền văn học thế giới, làm nên giá trị bất hủ của tác phẩm này có nhiều nguyên nhân song một điều không ai có thể phủ nhận là tài nghệ miêu tả và khắc họa tính cách nhân vật sắc sảo đến mức các nhà viết tiểu thuyết hiện đại cũng khó lòng theo kịp Nguyễn Du.
Trước hết nói về nghệ thuật miêu tả của cụ Tiên Điền vì ngoại hình một con người bao giờ cũng là cái đập vào mắt, đến với nhận thức chúng ta đầu tiên. Một điều rất dễ nhận thấy là sự khác biệt trong cách miêu tả nhân vật chính điện và nhân vật phản diện của Nguyễn Du. Trong quan niệm của Tố Như, một con người cũng như bao nho sĩ đương thời chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Trung Quốc, các nhân vật mang trong mình đỉnh cao của chân, thiện, mỹ đều được khắc họa bằng hàng loạt điển cố với bút pháp ước lệ. Với chị em Kiều là “Mai cốt cách, tuyết tinh thần”, Kim Trọng phải là :
Còn Từ Hải, người anh hùng cái thế ? Ta lại bắt gặp “Râu hùm, hàm én, mày ngài, vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”, những tiêu chuẩn, những kích thước điển hình của một trang hảo hán. Ngược lại, ở những nhân vật phản diện, bút pháp của Nguyễn Du lại rất thực tế, sinh động đến mức trần trụi. Mã Giám Sinh là con buôn và cũng là gã trai lơ, hẳn cần vẻ ngoài chải chuốt, diêm dúa ư ? Thì đây “Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao”. Còn Sở Khanh, kẻ “bạc tình nổi tiếng lầu xanh”, Nguyễn Du khoác cho nó cái “hình dung chải chuốt áo khăn dịu dàng” để đi quyến rũ những “cành phù dung”. Tuy khác nhau đó nhưng Nguyễn Du vẫn khắc họa rất điển hình, chọn lọc chi tiết đến mức gắt gao để làm nổi bật lên dáng vẻ của từng hạng người, Tú Bà, mụ “gái làng chơi đã về già hết duyên”, để lại, không sao xóa nổi nước da “nhờn nhợt” xanh bủng beo của mụ. Và Tú Bà, chủ nhà chứa, quen “ăn gì” nếu không phải là những đồng tiền nhầy nhụa, ăn chơi của chị em những đêm tiếp khách, ních chặt căng đến “đẫy đà làm sao”. Hoạn Bà là một tể tướng phu nhân được Nguyễn Du thắp sáp cho mụ, biến mụ thành một pho tượng bệ vệ, quăng bịch xuống cái “giường thất bảo”giữa cái nhà “ban ngày sáp thắp” kia.
Đặc biệt, làm cho bạn đọc bao thế hệ không ngớt khâm phục là cái tài tả người mà dường như dự báo cho cả cuộc đời nhân vật ở Nguyễn Du. Khi tả Thúy Vân :
Advertisement
Và khi tả Thúy Kiều đẹp đến mức “Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”, Nguyễn Du đều có dụng ý cả. Trên thì “thua” “nhường”, sắc trung chỉ hiền, dưới lại “ghen”, “hờn” sắc trung chỉ thánh, tả sắc mà đến bậc thánh hiền thỉ quả là Nguyễn Du đã khổ tâm hun đúc, chọn chữ để tả ra cho rành. Ai đã nhận xét như vậy, quả là chí lý. Chẳng trách sau này, khi cảnh nhà nguy biến, trong khi Kiều “Dầu trong trăng đĩa lệ tràn thắm khăn” bởi “nỗi mình”, “nỗi nhà” thì Vân vẫn ngon lành giấc xuân, trong khi Kiều lênh đênh trong bể đoạn trường thì Vân vãn đề huề sống cùng Kim Trọng. Tả người mà đến mức đó hỏi ai hơn được Nguyễn Du ?
“Văn” đông càng lắc càng đầy ! Đi sang góc độ khắc họa tính cách nhân vật mới thấy hết “tay tiên” của Nguyễn Du “gió táp mưa sa” đến mức nào. Đi vào tính cách, vào nội tâm con người đâu phải chuyện đơn giản nhưng Nguyễn Du đã vượt qua thử thách đó tưởng chừng rất nhẹ nhàng, đơn giản.
Tả tính cách mà giới thiệu thẳng như khi tả Hoạn Thư:
Trước hết mượn ngay bút pháp miêu tả Nguyễn Du đã khắc họa rất thành công tính cách nhân vật. Nhà phê bình Xuân Diệu đã từng rất tâm đắc với chữ “thốt” trong bức chân dung nàng Vân
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Quả nếu thay “thốt” bằng “nói” thì thành ra Vân cười cười nói nói suốt ngày, còn đâu vẻ “đoan trang” nữa. Còn “thốt” là thỉnh thoảng mới nói, đúng lúc đó. Có thế mới thấy cái dụng công tột bực của cụ Tiên Điền. Còn Sở Khanh, đàn ông mà “hình dung chải chuốt áo khăn dịu dàng”. Mã giám Sinh, đấng mày râu gì mà “mày râu nhẵn nhụi”. Theo cái nhẵn nhụi ấy, theo cái chải chuốt của lụa là mà cũng tuột luôn đi mất cái tính cách của “đấng trượng phu”, chỉ còn lại một gã lái buôn, một kẻ bạc tình.
Cũng chỉ cần vài hành động điển hình thôi, Nguyễn Du cũng đã giúp người đọc đi guốc vào tim gan nhân vật. Với hành động đầy mờ ám : “Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào”, có khó gì không đoán được tâm địa phản trắc đầy âm mưu đen tối của Sở Khanh. Còn Kiều, nếu có đi theo hắn cũng chỉ là “cũng liều nhắm mắt đưa chân” trong cơn tuyệt vọng cùng cực của cô tiểu thư lá ngọc cành vàng thoắt bị xã hội vứt xuống bùn đen mà thôi. Rõ nhất là ở Từ Hải. Dường như sự xuất hiện của con người này luôn luôn đột ngột, bất ngờ :
Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi
Sau này, trong lời kể của viện lại họ Đô về Từ Hải cho chàng Kim, ông cũng dùng từ “bỗng”. Từ Hải là thế đó ! Chàng đến, chàng đi đột ngột như cơn gió lốc, quét hết mọi dơ bẩn, đưa lại hạnh phúc cho con người. Chàng như ánh sao băng vụt lóe sáng, xé rách màn đêm đột ngột, đầy ngỡ ngàng, ấm áp, hân hoan. “Bỗng đâu”văn Truyện Kiều bừng sáng sau bao nhiêu “cung gió thảm mưa sầu”.
Ngôn ngữ cũng được Nguyễn Du tận dụng tối đa để làm bật lên tính cách nhân vật. Chỉ đọc những dòng “ghi âm” lời Hoạn Thư :
Cũng phải sởn gai ốc vì cái giọng đay nghiến như muốn gí đầu người ta xuống , róc thịt người ta ra của mụ. Và giọng lưỡi Tú Bà :
Những bài học vỡ lòng trong làng chơi được mụ truyền cho Kiều đã khiến Xuân Diệu cảm thấy mụ chỉ nói trong mấy phút mà bọt mép của mụ văng đến nghìn năm”. Có lẽ, đối với những con “sư tử Hà Đông” đó thì ngôn ngữ lại là cây bút rất tốt để vẽ lên tâm địa của chúng. Và Nguyễn Du đã rất thành công.
Một phương pháp điển hình trong nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật, một bút pháp quen thuộc của các nhà viết tiểu thuyết, truyện ngắn, đặt nhân vật vào hoàn cảnh điển hình. Kiều là nhân vật được khắc họa đạt nhất bằng bút pháp đó. Nàng là con gái, là phụ nữ. Không gì điển hình hơn khi đặt Kiều trong thế đối lập với lễ giáo phong kiến trước tình yêu chớm nở với Kim Trọng. Lễ giáo phong kiến nghiêm khắc và nghiệt ngã, “nam nữ thụ thụ bất thân”. Nhưng Kiều vẫn chủ động đến với Kim Trọng: ‘Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa”, đêm về vẫn mơ tưởng:
Cách xử thế ấy đã làm bao nhà nho xưa chau mày, bặm môi, và ngay cả đến bây giờ cũng chưa hết khiến chúng ta bàng hoàng. Cũng phải đặt con người “hiếu trọng tình thâm” ấy giữa một bên là cha và em đang chịu cảnh “giường cao rút ngược dây oan” với một bên là mối tình đầu chớm nở mới thấy hết giá trị, sức nặng của câu nói đầy nước mặt: “Dễ cho để thiếp bán mình chuộc cha” của Kiều, mới thấy hết hiếu nghĩa ở người con. Đây cũng là con người sống có trước có sau. Làm sao quên được hình ảnh “Từ công sánh với phu nhân cùng ngồi”? Khi có quyền hành trong tay, Kiều bỏ ra bao bạc vàng, lụa là đền ơn và kiên quyết tuyên án gia hình “những phường bạc án tinh ma” đã đẩy nàng xuống bùn đen. Chưa bao giờ Kiều hiện lên sắt đá, quyết định đến thế. Thật là con người tình, hiếu, nghĩa vẹn toàn. Đặc biệt tuy là một người anh hùng những là con người biết rung động trước cái đẹp của người phụ nữ yếu ớt. Không gì hơn khi đặt chàng trong cuộc gặp gỡ với Kiều nơi lầu xanh chứ không phải trong cuộc chiến đấu, nơi trận tiền để khắc họa tấm lòng cao quý của người anh hùng ấy. Đó là cái độc đáo, và cũng là sáng tạo rất thành công của Nguyễn Du.
Điều làm ta ngỡ ngàng nhất là “bút pháp phân tích tâm lý tàn nhẫn”, theo cách gọi của Phan Ngọc, Nguyễn Du. Nhân vật của ông hiện lên theo cách rất người. Trong Truyện Kiều, còn ai được ông yêu thương hơn Thúy Kiều và Từ Hải. Thế nhưng Nguyễn Du vẫn làm chủ được ngòi bút của mình. Cái gì phải đến nó sẽ đến. Con người bao giờ cũng là con người với tất cả cái mạnh, yếu của mình. Đến một lúc nào đó, nàng Kiều sau bao nhiêu “gió dập sóng va” sẽ phải mệt mỏi, hãi hùng, phải “xiêu” trước “lễ nhiều nói ngọt”, trước bả vinh hoa mà Hồ Tôn Hiến đưa ra để khuyên Từ Hải hàng. Và Từ Hải, con người hùng ấy, trước kia đã từng xiêu trước “tấm lòng nhi nữ”, giờ nghe vợ tỉ tê tha thiết đến thế cũng phải lơi lỏng việc quân và cuối cùng ra hàng là điều dễ hiểu. Chúng ta chẳng trách họ, con người chứ có phải gỗ đá đâu. Và ta càng thêm phục Nguyễn Du.
Có người khi nhận xét bức tranh vẽ ngựa nói: “Từ khi có con ngựa ấy trên đời không còn gì đáng gọi là ngựa nữa”. Cũng có thể nói, từ khi các nhân vật Truyện Kiều ra đời, nó mang tính điển hình đến nỗi hễ nói đến chàng bạc tình là nói “Sở Khanh đã rẽ dây cương lối nào” và “Máu ghen Hoạn Thư” cũng trở thành thành ngữ cố định. Thế mới biết tài Nguyễn Du.
Mặt khen nét bút càng nhìn càng tươi
Nét bút Nguyễn Du, nghệ thuật miêu tả và khắc họa tính cách nhân vật của Nguyễn Du sẽ làm cho Truyện Kiều sống mãi.
Văn Mẫu Lớp 9: Cảm Nhận Hình Ảnh Bếp Lửa Trong Bài Thơ Bếp Lửa Dàn Ý &Amp; 5 Bài Văn Mẫu Lớp 9 Hay Nhất
Bếp lửa cũng chính là nguồn sống của hai bà cháu, là ấm no của những bữa cơm đơn sơ thủa nhỏ. Hình ảnh bếp lửa sẽ còn theo cháu mãi, trở thành biểu tượng của tình yêu thương mà cháu tự nhắc nhở sẽ không bao giờ quên. Mời các em cùng tải miễn phí:
Đề bài: Cảm nhận của em về hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt.
I. Mở bài:
Giới thiệu Cảm nhận hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa
II. Thân bài: Cảm nhận hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa
1. Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cảm xúc:
Bếp lửa là một hình ảnh rất quen thuộc ở làng quê Việt Nam
Bếp lửa rất gần gũi, thân thiện
Hình ảnh ngọn lửa ảo mộng được nhen nhóm vào lúc sương sớm rất mộng mị và ảo mộng
Hình ảnh bếp lửa rất gần gũi, thân thuộc và gắn bó với tuổi thơ
2. Suy ngẫm về hình ảnh bếp lửa:
ấp iu, nồng đượm
niềm yêu thương
bếp lửa không thể dập tắt được trong lòng người cháu
bếp lửa là nơi ấp ủ tình bà cháu thiêng liêng
III. Kết bài: Nêu cảm nghĩ của em về hình ảnh bếp lửa
Bếp lửa là một hình ảnh rất quen thuộc trong mỗi ngôi nhà ở làng quê Việt Nam, gợi nên hơi ấm gia đình, bàn tay tần tảo sớm hôm của người bà, người mẹ. Bếp lửa rất gần gũi, thân thiết với những người con nông thôn phải xa quê. Bếp lửa ấy ấp iu, nồng đượm, nhóm niềm yêu thương, và dang rộng vòng tay để vỗ về an ủi, để đưa người cháu trở về với những kỉ niệm yêu thương nhất của cuộc đời. Bếp lửa ấy đã âm ỉ cháy mãi, nuôi nấng tình yêu quê hương trong lòng người cháu, bếp lửa ấy đã ấp ủ mãi tình bà cháu thiêng liêng. Có thể nói, bếp lửa trong bài thơ chính là biểu tượng cho cội nguồn gia đình, quê hương, đất nước; cho những gì gần gũi thân thiết đối với tuổi thơ mỗi người và có sức mạnh tỏa sáng, nâng đỡ tâm hồn con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tóm lại, bếp lửa vừa là hình ảnh thực đồng thời và là một hình tượng nghệ thuật độc đáo của tác phẩm.
Trưởng thành là một hành trình khó khăn và gian khổ, là phải học cách sống tự lập, tự chăm sóc lấy bản thân, có lúc tự nhủ bản thân rằng mình ổn nhưng đôi khi lại bất chợt bật khóc đến nghẹn lời. Những lúc như thế ta lại nhớ về mái ấm gia đình, nhớ về những kỉ niệm xưa cũ, đó như là động lực để ta tiếp tục bước đi trên con đường đã chọn. Thật vậy có phải vì quá cô đơn, quá mệt mỏi khi phải sống và học tập một mình nơi đất khách quê người mà Bằng Việt đã đặt bút viết nên đôi dòng tâm tư ẩn sâu trong trái tim mình. Bài thơ Bếp lửa với hình ảnh bếp lửa xuyên suốt tác phẩm là nỗi niềm thương nhớ, là tình cảm, là tâm tư của một đứa con xa nhà khao khát được trở về mái ấm đơn sơ nơi có bóng dáng người bà thân thuộc.
Đúng vậy, sống trên đời làm gì có ai là thực sự mạnh mẽ, cứng cỏi mà không cần lấy tình yêu từ gia đình mình. Càng được yêu thương, chở che bao nhiêu thì khi mất đi cái lớp bảo vệ hoàn hảo ấy con người ta sẽ càng cảm thấy mất mát, nhớ nhung. Và đó có lẽ cũng là tâm sự của tác giả- nỗi lòng của một đứa con xa nhà.
Mùa đông, mùa của cô đơn và lạc lõng. Thật vậy cái lạnh trong sương mờ ảo ấy lại khiến tác giả nhớ về quê hương, nhớ về bà, nhớ về tuổi thơ chân chất nồng đượm tình yêu của bà. Có phải vì không thể kìm được nỗi nhớ mà tác giả đã thốt lên:
Hình ảnh bếp lửa xuất hiện ở ngay đầu bài thơ, ngọn lửa ấy như làm sáng rực cả không gian thời gian, làm thổn thức trái tim nhỏ bé của bao đứa con xa nhà. Ngọn lửa lớn lên trong tiềm thức người cháu là ngọn lửa gắn với hình ảnh của bà, bà là người thắp lên ngọn lửa để nuôi cháu lớn lên không quản bao khó nhọc, bà tần tảo thức khuya dậy sớm, tình yêu của bà đã chạm đến trái tim cháu để rồi đứa cháu lại phải thốt lên tình yêu thương bà trong nghẹn ngào.
Nhờ việc sử dụng các từ láy “ấp iu, chờn vờn” tác giả đã khắc họa lên hình ảnh một bếp lửa thật đẹp, thật giản dị. Đó không chỉ là một cái bếp lửa bình thường và cũng chẳng phải một vật vô tri vô giác, nó mang hơi ấm của tình yêu thương, nó đốt lên ngọn lửa trong trái tim cháu, là ngọn lửa tình yêu của bà và cũng là minh chứng cho tình cảm gia đình những ngày thơ bé của tác giả.
Ngọn lửa sưởi ấm cả tuổi thơ của cháu, lớn lên cùng cháu. Nó đã trở thành biểu tượng gắn liền với tuổi thơ bên bà khó nhọc:
Phải chăng là làn khói kia vô tình hun nhèm mắt cháu hay là nỗi lòng thương bà khiến cháu nghẹn ngào trong những xúc cảm. Thời gian vốn chẳng để dành ngoại lệ cho một ai, khi bé thơ cháu cứ hồn nhiên mà vô tư sống bên bà, cháu vốn chỉ ích kỉ biết đến bản thân, đôi khi vu vơ giận dỗi bà mà đâu biết bà mang trên vai gánh nặng gia đình. Bà thay cha, thay mẹ cháu, bà cho cháu yêu thương, cho cháu cảm nhận được sự phẳng lặng của cuộc đời. Giờ đây khi cháu lớn, cháu biết cuộc sống là gì thì cháu mới lại nhận ra nỗi đau của bà, nỗi cô đơn mà bà phải chịu, nhưng bà vẫn nhẫn nhịn tần tảo nuôi cháu lớn khôn.
Khúc ca về tình yêu thương và sự hy sinh của bà vẫn cứ tiếp tục, nó cứ dồn dập không ngớt như bóp nghẹt lấy trái tim của cháu, cháu lại hồi tưởng về những ngày tháng bên bà, cứ thế thả trôi vào dòng kí ức bất chợt từ tiềm thức dội về.
Bà đã quen với cuộc sống khó nhọc, ngày qua ngày bà vẫn tần tảo nhóm bếp. Bếp lửa của yêu thương nồng đượm, của no ấm sum vầy. Bếp lửa của đức hy sinh cao cả giúp nhen lên ngọn lửa sáng rực trong tim cháu, dạy cháu biết yêu thương và trân trọng.
Ai rồi cũng sẽ lớn, sẽ phải rời xa những điều thân thuộc để học cách lớn lên, học cách trưởng thành. Nhưng dù sống ở đô thị phồn hoa, tàu xe trăm ngả nhưng tác giả vẫn không quên nhắc nhở mình về ân nghĩa của bà, vẫn băn khoăn lo lắng về thói quen dậy sớm của bà:
Kết thúc bài thơ bằng một câu hỏi tu từ đầy băn khoăn trăn trở, đó là tình yêu dành cho bà, là lo lắng đầy săn sóc dành cho người đã nuôi mình lớn. Dù nơi phương xa nhưng cháu vẫn dõi theo bà, vẫn hướng về phía bà như bà đã luôn dõi theo cháu. Giờ này ở nơi ấy liệu bà nhóm bếp lên chưa?
Hình ảnh bếp lửa được nhắc đến xuyên suốt trong bài thơ, bếp lửa là nguồn sống của hai bà cháu, là ấm no của những bữa cơm đơn sơ thủa nhỏ. Bếp lửa gắn với tuổi thơ cháu, bà nhóm bếp nhóm dậy lên cả những tâm tình tuổi nhỏ. Hình ảnh bà và bếp lửa sẽ còn theo cháu mãi, trở thành biểu tượng của tình yêu thương mà cháu tự nhắc nhở sẽ không bao giờ quên. Cuộc đời chẳng mấy thoáng chốc sẽ qua đi, vậy nên đừng để phí một giây một phút nào vì sự ích kỉ của bản thân mà làm tổn thương những người xung quanh mình. Hãy sống để yêu thương, trân trọng và để cho đi. Sống luôn biết ơn người đã yêu thương mình và hãy trưởng thành thật tốt để đền đáp ân nghĩa của cha mẹ, của những người đã trao cho chúng ta yêu thương.
Trong bài thơ “Bếp lửa”, hình ảnh bếp lửa chính là hình ảnh giản dị mà thiêng liêng, cao quý, là biểu tượng của tình bà cháu và lưu giữ những kỷ niệm ấu thơ tươi đẹp của tác giả. Thật vậy, bếp lửa chính là hình ảnh của một thời ấu thơ gian khó mà tràn ngập tình yêu thương của tác giả Bằng Việt.
Ông sống cùng bà bên bếp lửa, đã quen với những “chờn vờn sương sớm”, với những “ấp iu nồng đượm” bên bếp lửa và bên người bà kính yêu của mình. Đó là những tháng ngày vất vả mà “khói hun nhèm mắt cháu”, “sống mũi còn cay” mà tác giả đã từng trải qua. Thế nhưng, cũng chính ở bếp lửa, người đọc thấy được tình bà cháu sâu đậm. Trong suốt những năm tháng ấu thơ đó, tác giả đã sống cùng với bà, được bà chăm sóc, chỉ bảo tận tình. Đặc biệt nhất đó là hình ảnh:
Qua đó, cho thấy được tình yêu mà bà dành cho cháu, dành cho gia đình qua bếp lửa. Trong bếp lửa, người đọc thấy được tình yêu, tấm lòng bao la mà bà dành cho con cháu.
Cho ta thấy được bếp lửa hay cũng chính là ngọn lửa mà bà luôn ấp ủ dành cho tương lai hạnh phúc của con cháu. Trong những năm tháng chiến tranh, bà chính là chỗ dựa tinh thần và là người mang đến hơi ấm cho con cháu của mình tựa như bếp lửa bập bùng. Để rồi, sau này, hình ảnh bếp lửa mãi mãi là ký ức thật đẹp mà tác giả lưu giữ trong tâm trí.
Dù có đi đến những chân trời mới thì bếp lửa và ký ức về bà vẫn mãi mãi ngự trị trong tim của tác giả. Đó chính là thứ thiêng liêng, kỳ diệu và ấm áp nhất “Ôi kỳ lạ và thiêng liêng, bếp lửa”. Tóm lại, hình ảnh bếp lửa là hình ảnh nghệ thuật thành công, để lại ấn tượng sâu sắc cho bạn đọc.
Trong cuộc đời mỗi con người chúng ta có thể quên đi nhiều điều, nhưng ký ức tuổi thơ thì khó có thể phai nhạt. Đối với Bằng Việt, kỷ niệm thơ gắn liền với hình ảnh người bà thân thương và bếp lửa nồng đượm. Tất cả kỷ niệm thời thơ ấu thật ấy được tác giả làm sống dậy trong bài thơ “Bếp lửa”. Bài thơ được viết năm 1963 khi tác giả đang sinh sống và học tập xa đất nước. Bài thơ đã khắc họa chân thật hình ảnh người bà gắn liền với những kỷ niệm trong quá khứ để từ đó tác giả bộc lộ tâm trạng nhớ nhung cùng với những tình cảm yêu thương xen lẫn cảm phục của mình đối với người bà thân yêu.
Đi ra từ nỗi nhớ, tất cả những hình ảnh, ngôn từ bị cuốn theo dòng hoài niệm. Một thời quá khứ được tái hiện lại trong tâm tưởng với những chi tiết rất cụ thể. Tác giả nâng niu từng mảnh ký ức hiện về. Theo diễn biến tâm tư của nhân vật người cháu, chúng ta cảm nhận thấm thía từng cung bậc tâm trạng theo từng ngọn lửa trong bài thơ: lửa của kỷ niệm tuổi thơ, lửa của cuộc sống lúc đã trưởng thành; bếp lửa của bà ngày xưa, bếp lửa ngày nay.
Sống xa quê hương, giã từ xứ lạnh đầy sương tuyết, tác giả chạnh lòng nhớ đến một bếp lửa thật ấm áp của quê hương. Bếp lửa gắn chặt với hình ảnh người bà, bếp lửa của một thời thơ ấu với nhiều kỷ niệm khó phai.
Trong mấy câu thơ mở đầu có một bếp lửa chờn vờn mang màu cổ tích. Hình ảnh “chờn vờn sương sớm” thật sống động, gợi lên ngọn lửa không định hình khi to khi nhỏ, khi lên khi xuống nhưng rất mạnh mẽ. Sử dụng hình ảnh ấy rất thích hợp với trạng thái tâm lý hồi tưởng những vậy đã qua, đã rời ra nhưng lại có sức ám ảnh day dứt. Từ láy “ấp iu” bao gồm hàm ý bé nhỏ, thầm kín bên trong, đồng thời còn gợi lên cho ta bàn tay khéo léo, kiên nhẫn và chăm chút của người nhóm lửa. Điệp ngữ “một bếp lửa” được lặp lại ở đầu những câu thơ có tác dụng nhấn mạnh dấu ấn kỷ niệm sâu lắng trong ký ức tác giả. Nó trở thành hình tượng xuyên suốt hết bài thơ. Hồi tưởng về bếp lửa của quê hương, cũng chính là hồi tưởng về người bà thân yêu của mình. “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Đọng lại trong 3 dòng thơ đầu có lẽ là chữ “thương” và hình ảnh người bà lặng lẽ, âm thầm trong khung cảnh lầm lũi “biết mấy nắng mưa”. Hai chữ “nắng mưa” không chỉ để nói đến nắng mưa của thiên nhiên mà còn gợi cho ta nghĩ đến nắng mưa cuộc đời. Biết bao tình cảm xúc động mà nghẹn ngào trong câu thơ ấy!
Từ tình thương và nỗi nhớ da diết tràn đầy đã đánh thức tác giả sống lại với những năm tháng ấu thơ.
Lẽ thường, vui thì người ta cũng nhớ, nhưng những kỷ niệm buồn thường sâu đậm hơn nhiều. Tuổi thơ ấy có bóng đen ghê rợn, đau buồn của nạn đói năm 1945. Đó là năm “đói mòn đói mỏi”, “bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy”. Đứa trẻ đã sớm có ý thức tự lập và phải sống trong sự cưu mang của người bà. Cảm nhận về nỗi vất vả gián tiếp tác giả bộc lộ thời thơ ấu của mình. “Mùi khói” rồi lại” khói hun nhèm”, có thể nói nhà thơ đã chọn được một chi tiết thật chính xác, vừa miêu tả chân thực cuộc sống tuổi thơ, vừa biểu hiện những tình cảm da diết, bâng khuâng, xót xa, thương mến. Hình ảnh “khói hun nhèm mắt” cũng gợi cho ta nghĩ đến sự cơ cực, vất vả tỏa ra từ một bếp lửa của gia đình nghèo khổ. Câu thơ “nghĩ lại…. cay” tô đậm nỗi niềm thổn thức của tác giả. Thơ Bằng Việt có sức truyền cảm mạnh mẽ nhờ những chi tiết, ngôn từ chân thật, giản dị như thế. Cái bếp lửa kỷ niệm của nhà thơ chỉ mới khơi lên, thoang thoảng mùi khói, mờ mờ sắc khói… mà đã đầy ắp những hình ảnh hiện thực, thấm đậm biết bao nghĩa tình sâu nặng.
Từ sau sương khói mịt mờ của tuổi thơ, tác giả đã thổi phồng lên những kỷ niệm của tuổi thiếu niên khi quê hương đất nước có chiến tranh.
Ngôn ngữ, hình ảnh thơ rõ dần. Giọng thơ như thể giọng kể trong một câu chuyện cổ tích, có thời gian, không gian, có sự việc và các nhân vật cụ thể. Nếu trong hồi ức, lúc tác giả lên bốn tuổi, ấn tượng đậm nét nhất của đứa cháu là “mùi khói”, thì đến đây, xuất hiện một ấn tượng khác là “tiếng tu hú”. Lúc mơ hồ, vắng lặng “trên những cánh đồng xa”, lúc gần gũi, nghẹn ngào “sao mà tha thiết thế”, tiếng tu hú như than thở, sẻ chia những nỗi nhớ xa cách, trông ngóng mỏi mòn. Đưa tiếng tu hú, một âm thanh rất đồng nội ấy vào thơ, Bằng Việt quả là có một tâm hồn gắn bó sâu nặng với quê hương.
Trong những câu thơ ấy, ta thấy từ “bà” được lặp lại nhiều lần cùng với cấu trúc “bà – cháu” sóng đôi gợi sắc điệu tình cảm xoắn xuýt, gắn bó, ấm áp của tình bà cháu. Tác giả như trách móc loài chim tu hú vô tình chỉ gợi sự cô đơn đến vắng vẻ mà không đến san sẻ với bà. Cách nói này đã bộc lộ kín đáo, ý nhị tình cảm của tác giả đối với bà. Tiếng chim tu hú trong khổ thơ làm cho không gian kỷ niệm có chiều sâu. Nỗi nhớ của cháu về bà bỗng trở nên thăm thẳm và vời vợi. Ẩn chứa đằng sau những câu chữ ấy là tình cảm thương yêu, xót xa của nhà thơ trước nỗi cô đơn và sự vất vả của bà.
Khổ thơ tiếp theo với những hình ảnh bà cháu và bếp lửa trong những năm kháng chiến.
Đứa cháu lớn dần, cuộc sống khó khăn hơn trước song nghị lực của bà vẫn bền vững, tấm lòng của bà vẫn nhân hậu, mênh mông. Lời người bà dặn cháu thật nôm na nhưng chân thực và cảm động. “Bố ở chiến khu bố còn việc bố – Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ”. Gian khổ, thiếu thốn và nhớ nhung cần phải che giấu cho con người đi xa được yên lòng. Tấm lòng người bà thương con thương cháu ân cần, chu đáo biết bao.
Trong những câu của khổ thơ này, hình ảnh “bếp lửa” đã chuyển thành “ngọn lửa” trong ý nghĩ tượng trưng, khái quát. “Bếp lửa” với những ấm áp bình lặng của tình cảm gia đình, của tình bà cháu, đã trở thành ngọn lửa của trái tim, của niềm tin và sức sống mãnh liệt con người. Tình thương và lòng nhân ái bao la của con người mãi ấm nóng, bền bỉ tỏa sáng, trường tồn.
Từ cảm xúc nhớ thương của đứa cháu nhỏ với bà, tác giả đã chuyển sang bộc lộ những cảm xúc, suy nghĩ của một thanh niên đã trường thành đối với người bà trong hiện tại.
Chiến tranh đã đi qua, những gian khổ đã vơi bớt, cuộc sống đã đổi thay nhưng bà vẫn giữ thói quen “thói quen dậy sớm”, bếp lửa của bà vẫn “ấp iu nồng đượm” như ngày nào. Điệp từ “nhóm” được nhắc lại 4 lần mang bốn nghĩa khác nhau, tỏa sáng dần nét “kỳ lạ”, thiêng liêng và nhất là tình nghĩa của bà. Nếu trước đây, đó là ngọn lửa nồng đượm nhóm niềm tin trong những ngày gian khổ, khó khăn vì vật vã đói kém, thì bây giờ ngọn lửa ấy còn nhóm lên trong lòng tác giả bao vẻ đẹp khác nữa. “Nhóm” mở rộng tấm lòng đoàn kết, gắn bó với làng xóm quê hương. Và cuối cùng, người bà kỳ diệu ấy “nhóm dậy”, thức tỉnh và bồi đắp cho đứa cháu về tâm hồn bếp lửa ấp iu nồng đượm” ấy là bếp lửa có thật, có ánh sáng và hơi ấm. “Nhóm niềm yêu thương” có nghĩa là bà truyền cho cháu tình ruột thịt nồng đượm, ngọt ngào. “Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” hay cũng chính là bà và cách sống. Âm điệu trong đoạn thơ này dạt dào như sóng dồi, lan tỏa như lửa ấm hay đây chính là cảm xúc đang dâng trào, đang tỏa ấm trong trái tim nhà thơ? Mỗi câu, mỗi chữ cứ hồng lên, nồng ấm biết bao tình cảm nhớ thương nhân nghĩa! Có thể nói câu thơ cuối bộc lộ rõ nhất thái độ kính trọng và cảm xúc đang dâng trào ào ạt trong tâm hồn Bằng Việt. Câu thơ chỉ có 8 chữ mà có sức khái quát cả suy nghĩ lẫn tình cảm của tác giả đối với bếp lửa gắn liền hình ảnh người bà, với cách ngắt nhịp là một dấu lặng đầy nghệ thuật chứa đựng bao cảm xúc và suy nghĩ ko thể diễn tả hết bằng ngôn từ.
Đoạn thơ cuối cùng vẫn tiếp tục mạch cảm xúc nhớ thương khôn nguôi thể hiện kín đáo tình cảm biết ơn sâu nặng của tác giả đối với người bà đã từng cưu mang, đùm bọc mình.
Giờ đây, tác giả đã sống xa xứ, đã trưởng thành, đã rời xa vòng tay người bà. Đứa cháu ấy đã được mở rộng tầm mắt để nhìn thấy “khói trăm tàu”, “lửa trăm nhà”, “niềm vui trăm ngả”. Cuộc sống đầy đủ vật chất hơn, nhưng vẫn ko nguôi ngoai tình cảm nhớ thương bà. Tình cảm ấy đã trở thành thường trực trong tâm hồn tác giả. Câu hỏi tu từ khép lại bài thơ thật khéo, thật hay, có sức ám ảnh day dứt tâm trí người đọc. Nhà thơ hỏi nhưng cũng là nhắc nhở chính mình phải luôn nhớ tới ngọn lửa quê hương, nhớ tới người bà đã trở thành chỗ dựa tinh thần của đứa cháu ở phương xa. Đó là nỗi nhớ tha thiết, da diết. Hình ảnh bếp lửa cứ trở đi trở lại trong bài thơ, vừa là một hình ảnh rất cụ thể, vừa có sức khái quát sâu sắc.
“Bếp lửa ấp iu nồng đượm” đã trở thành biểu tượng của tấm lòng người bà, mãi mãi sưởi ấm tâm hồn nhà thơ. Thật không ngờ, một bếp lửa bình thường như trăm ngàn bếp lửa khác lại có tác dụng xúc động đến như vậy. Người bà trong “Bếp lửa” đã nuôi con nuôi cháu, đã đi qua đói khát và chiến tranh, đã cho con mình đi kháng chiến vì đất nước, đã âm thầm ở lại nhà giữ mảnh đất tổ tiên để lại, âm thầm chờ đợi và hy vọng… Đó chẳng phải là biểu tượng về sự sống lớn lao và cao cả của con người sao? Bà là người phụ nữ Việt Nam, như ngọn lửa cháy sáng và ấm mãi.
Trong hành trình cuộc đời của mỗi con người có những ngày tháng, những kỷ niệm và những con người không thể nào quên được. Bằng Việt đã có được một tuổi thơ gắn bó với người bà mà ông yêu quý, kính trọng. Ông đã gửi gắm tâm sự trong bài thơ và thể hiện nó bằng giọng điệu tâm tình, sâu lắng, hình ảnh thơ gợi cảm và giàu sức liên tưởng, suy ngẫm. Bài thơ chính là món quà quý giá mà Bằng Việt gửi đến cho người đọc. Tác phẩm có tác dụng giáo dục rất tốt về tình nghĩa thủy chung với gia đình, quê hương, đối với những gì đã nhen nhóm và nuôi dưỡng ngọn lửa thiêng liêng trong tâm hồn mỗi con người.
Advertisement
Trong cuộc đời, ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của một thời ấu thơ hồn nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng liêng, thân thiết nhất, nó có sức mạnh phi thường nâng đỡ con người suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Bằng Việt cũng có riêng ông một kỉ niệm, đó chính là những tháng năm sống bên bà, cùng bà nhóm lên cái bếp lửa thân thương. Không chỉ thế, điều in đậm trong tâm trí của Bằng Việt còn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu. Chúng ta có thể cảm nhận điều đó qua bài thơ “Bếp lửa” của ông.
Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kì chống Mĩ cứu nước. Thơ ông trong trẻo, mượt mà, khai thác những kỉ niệm và mơ ước của tuổi trẻ nên rất gần gũi với bạn đọc. Bài thơ Bếp lửa được Bằng Việt sáng tác năm 1963, khi ấy tác giả là sinh viên đang du học tại Liên Xô, phải sống xa nhà. Bài thơ gợi lại những kỉ niệm về người bà và tình bà cháu cảm động, sâu sắc. Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ là hình ảnh nổi bật, giàu ý nghĩa, khơi gợi nhiều suy nghĩ.
Hình ảnh thân thương, ấm áp về bếp lửa:
Hình ảnh quen thuộc, gần gũi trong mỗi gia đình từ bao đời (từ “ấp iu”: gợi nhớ bàn tay khéo léo, kiên nhẫn, lại rất chính xác với công việc nhóm lửa)
Trong kí ức, hình ảnh bếp lửa đã trở thành kỉ niệm khó phai. Bếp lửa không chỉ “chờn vờn” sương sớm, gắn bó với sự tần tảo của người phụ nữ Việt Nam mà còn “ấp iu nồng đượm”, bếp lửa được nhen lên bằng sự nâng niu, ôm ấp của tình thương.
Hình ảnh bếp lửa khơi gợi kỉ niệm thời thơ ấu bên người bà:
Tuổi thơ có bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945; có mối lo giặc tàn phá xóm làng; có hoàn cảnh chung của nhiều gia đình Việt Nam trong kháng chiến : bố mẹ đi công tác bận không về, cháu ở với bà, sống trong sự dạy dỗ, cưu mang của bà. Bếp lửa hiện lên trong kí ức như tình bà ấm áp, như sự đùm bọc của bà: “Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói” hay “Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi”.
Bếp lửa của tình bà cháu lại gợi nên một liên tưởng khác. Đó là tiếng chim tu hú như giục giã, như khắc khoải điều gì thật da diết, vừa gợi ra tình cảnh vắng vẻ và nhớ mong của hai bà cháu, vừa khiến lòng người trỗi dậy nồi nhớ mong, rất phù hợp với tâm tình người xa xứ.
Hình ảnh bếp lửa khơi gợi đức hi sinh, tần tảo của người bà, bếp lửa gắn với cuộc đời bà nhiều gian khổ, nhưng cũng gắn với những đức tính cao đẹp của bà. Bà là người nhóm lửa, cũng là người giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng và toả sáng trong mỗi gia đình. Ngọn lửa bà nhóm lên mỗi sớm mai.
Vì vậy, đứa cháu dù đi xa, vẫn không thể quên ngọn lửa của bà, tấm lòng thương yêu đùm bọc của bà. Ngọn lửa ấy đã trở thành kỉ niệm ấm lòng, thành niềm tin, nâng bước cháu trên chặng đường dài. Kì diệu hơn, người cháu nhờ hiểu và yêu bà mà thêm hiểu nhân dân, dân tộc mình “Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi”
Trong bài thơ: mười lần tác giả nhắc đến bếp lửa và hiện diện cùng bếp lửa là hình ảnh người bà, cũng là tiêu biểu cho hình ảnh người phụ nữ Việt Nam với vẻ đẹp tảo tần, nhẫn nại và đầy yêu thương.
Hình ảnh bếp lửa được nâng lên thành ngọn lửa trong suy tưởng của nhà thơ:
Nhà thơ đã nhận ra một điều sâu xa: bà nhóm lên bếp lửa bằng chính ngọn lửa trong lòng mình – ngọn lửa của sức sống, niềm yêu thương, niềm tin mãnh liệt. Bởi thế, hình ảnh bếp lửa mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc: Người bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa – ngọn lửa của sự sống, của niềm tin cho các thế hệ mai sau.
Hình ảnh bếp lửa là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo, có giá trị thẩm mĩ cao: vừa cụ thể, chân thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng, góp phần thể hiện chiều sâu triết lí thầm kín của bài thơ: những gì thân thiết nhất của tuổi thơ đều có sức mạnh nâng đỡ con người suốt cuộc đời.
Tình cảm yêu quý, biết ơn đối với người bà chính là biểu hiện cụ thể của tình yêu thương, sự gắn bó với gia đình, quê hương, điểm khởi đầu của tình yêu đất nước.
Bài thơ khiến người đọc xúc động bởi tình cảm bà cháu chân thành, thắm thiết.
Từ những suy ngẫm của người cháu về hình ảnh bếp lửa và tình bà, bài thơ biểu hiện một triết lí sâu sắc: Những gì thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng bước con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu đất nước bắt nguồn từ lòng yêu quý ông bà, cha mẹ, từ những gì gần gũi và bình dị nhất.
Cập nhật thông tin chi tiết về Văn Mẫu Lớp 9: Cảm Nhận Về Nhân Vật Vũ Nương Trong Chuyện Người Con Gái Nam Xương Dàn Ý &Amp; 20 Bài Văn Mẫu Lớp 9 Hay Nhất trên website Jhab.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!