Bạn đang xem bài viết Văn Mẫu Lớp 12: Phân Tích Khổ 5 Bài Thơ Việt Bắc Của Tố Hữu (2 Dàn Ý + 12 Mẫu) Phân Tích Đoạn 5 Việt Bắc được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Jhab.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Đề bài: Em hãy phân tích khổ 5 bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu để làm rõ nỗi nhớ da diết của người cán bộ về xuôi với chiến Khu Việt Bắc?
I. Mở bài:
– Giới thiệu tác giả, bài thơ Việt Bắc: Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Việt Bắc (10/1954; in trong tập thơ cùng tên), được đánh giá là tác phẩm tiêu biểu cho văn học thời kì kháng chiến chống Pháp.
II. Thân bài:
1. Về nội dung:
– Nỗi nhớ của người Cách mạng với đồng bào, với thiên nhiên Việt Bắc được so sánh với nỗi nhớ người yêu: cồn cào, da diết, nồng nàn…
– Nhớ thiên nhiên thanh bình, yên ả, đơn sơ mà thơ mộng.
– Nhớ cuộc sống của đồng bào và chiến sĩ đầy khó khăn gian khổ nhưng nghĩa tình sâu nặng: hình ảnh ẩn dụ chuyển đổi cảm giác (đắng, cay, ngọt, bùi), cụm động từ (chia củ sắn lùi, sẻ nửa, đắp cùng) diễn tả cảm xúc nhớ thương của người ra đi đối với người ở lại.
2. Về nghệ thuật
– Thể thơ: lục bát truyền thống với cách gieo vần đặc trưng đã làm cho đoạn thơ mang âm điệu ngọt ngào, êm ái..
– Biện pháp tu từ: Điệp từ “nhớ” cùng lối so sánh đặc biệt đã bộc lộ một cảm xúc thương nhớ dạt dào. Việc liệt kê một loạt những hình ảnh cùng địa danh của Việt Bắc đã khắc họa thật sâu nỗi niềm thương nhớ của một người chiến sĩ – thi sĩ đối với quê hương thứ hai của mình…
– Hình ảnh, ngôn ngữ: giản dị tự nhiên, gần gũi…
III. Kết bài
– Đoạn thơ trên chính là bản tình ca về lòng chung thủy sắt son, là tiếng lòng của nhà thơ, hay cũng chính là của những người Việt Nam trong kháng chiến.
– Tố Hữu đã thể hiện thành công tình cảm của người cán bộ dành cho thiên nhiên, nhân dân Việt Bắc không chỉ là tình cảm công dân xã hội mà còn là sự sâu nặng như tình yêu lứa đôi.
1. Mở bài: Giới thiệu tác giả :
Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam . Các chặng đường thơ của Tố Hữu luôn gắn bó và phản ánh chân thật những chặng đường cách mạng , những chặng đường vận động trong quan điểm tư tưởng và bản lĩnh nghệ thuật của chính nhà thơ.
2. Thân bài
a) Giới thiệu bài thơ và đoạn thơ :
Chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi. Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết. Tháng 10/1954, trung ương Đảng, chính phủ và Hồ Chủ tịch từ giã Việt Bắc về lại Thủ đô Hà Nội. Một trang lịch sử mới của dân tộc đã mở ra. Tố Hữu là một trong số những cán bộ kháng chiến từng sống gắn bó nhiều năm với Việt Bắc, nay từ biệt chiến khu để về xuôi. Sự kiện lịch sử đó đã mang lại cho Tố Hữu cảm xúc để viết nên bài thơ Việt Bắc .
Đoạn thơ trong đề bài thuộc phần lời thơ của người cán bộ cách mạng về xuôi trả lời người Việt Bắc. Toàn bộ đoạn thơ thể hiện tình cảm thương nhớ của người cán bộ cách mạng đối với cảnh vật, con người, kỷ niệm ở Việt Bắc trong những năm kháng chiến vừa qua.
b) Phân tích:
– Trước hết, đó là tình cảm thương nhớ đối với kỷ niệm những ngày tháng đồng cam cộng khổ (4 câu đầu).
Từ xưng hô “mình, ta” : thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa người cán bộ cách mạng và Việt Bắc.
Ta đi ta nhớ, mình đây ta đó : kết cấu đối xứng thể hiện giọng thơ rắn rỏi, nói lên tình cảm gắn bó tha thiết, nhớ thương của người cán bộ đối với Việt Bắc.
Đắng cay, ngọt bùi : từ ngữ tương phản nói lên kỷ niệm phong phú, sâu sắc của cán bộ trong những tháng ngày gian khổ nơi Việt Bắc và với người dân Việt Bắc.
Chia, sẻ, đắp cùng : những động từ bộc lộ tình cảm đồng cam cộng khổ của Việt Bắc và cách mạng.
– 2 câu tiếp : Trong nỗi nhớ của người cán bộ, hình ảnh người dân Việt Bắc hiện lên chân thật và đầy xúc động với hình ảnh “người mẹ nắng cháy lưng / địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô”. Đó là người lao động nghèo khổ, neo đơn nhưng dạt dào ân tình với cách mạng, không ngại vất vả, cực khổ lao động góp phần tạo nên lương thực cho cách mạng nuôi quân. Hình ảnh thơ giàu sức gợi, phản ánh tình cảm sắc son của đồng bào dân tộc đối với cách mạng.
Nắng cháy lưng : hình ảnh hiện thực có sức gợi thời tiết khắc nghiệt, qua đó nói lên sự vất vả, gian khổ.
Địu con lên rẫy : lời thơ giản dị, cũng là hình ảnh hiện thực, gợi lên hoàn cảnh neo đơn của người mẹ dân tộc.
Từ đó tình cảm sắc son cao đẹp của người dân tộc đối với cách mạng càng hiện lên rõ nét.
-4 câu tiếp theo : Con người và cảnh vật gắn bó với nhau. Nhớ về con người Việt Bắc, người cán bộ cách mạng lại nhớ trở lại những kỷ niệm gắn bó ở Việt Bắc. Đó là kỷ niệm với những lớp học bình dân học vụ (lớp học i tờ), những đêm liên hoan văn nghệ giữa núi rừng, những ngày tháng công tác ở cơ quan, gian nan nhưng lạc quan, đầy ắp yêu thương với tiếng hát , tiếng ca vang dội cả núi rừng.
Đồng khuya đuốc sáng : lời thơ gợi lên hình ảnh những đêm liên hoan văn nghệ, vui vẻ tưng bừng nơi rừng núi.
Ca vang núi đèo : lời thơ mang tính chất ẩn dụ, phản ánh tinh thần lạc quan, tình cảm đoàn kết gắn bó giữa cách mạng và người dân Việt Bắc.
– 2 câu cuối : cảnh vật Việt Bắc với nét gợi cảm trong buổi chiều và đêm tối, hiện lên sống động, tha thiết trong nỗi nhớ của người cán bộ về xuôi.
Từ nghi vấn “sao” kết hợp với “nhớ” làm cho giọng thơ trở nên tha thiết, phù hợp với tâm trạng của người cán bộ cách mạng về xuôi.
Rừng chiều, suối xa : hình ảnh thơ gợi lên khung cảnh trữ tình, gợi cảm của núi rừng Việt Bắc.
Cảnh vật được mô tả với chi tiết về âm thanh (tiếng mỏ, chày đêm nện cối) thể hiện khung cảnh đặc trưng của núi rừng. Am thanh vang vọng gợi tới những ký ức xa xôi nhưng tha thiết và đầy ám ảnh trong tâm tư của những kẻ chia li.
– Xuyên suốt phần thơ là sự hiện diện của điệp từ “nhớ” được sử dụng 5 lần, trong đó 3 lần được kết hợp với từ “sao” đã tạo nên giọng thơ đầy ắp cảm xúc, đầy ắp nhớ thương ở người cán bộ ra đi.
c) Đánh giá :
– Về nội dung : cả phần thơ là một khúc tình ca tha thiết thể hiện nỗi nhớ của người cán bộ về xuôi với cảnh vật và con người Việt Bắc. Nó có cội nguồn sâu xa từ tình yêu quê hương đất nước, niềm tự hào về sức mạnh của nhân dân, truyền thống ân nghĩa, đạo lí thuỷ chung của dân tộc Việt Nam. Phần thơ khắc sâu lời nhắn nhủ của Tố Hữu : Hãy nhớ mãi và phát huy truyền thống yêu nước quý báu, anh hùng, bất khuất, nhân nghĩa thủy chung của cách mạng, của con người Việt Nam.
– Về nghệ thuật :
Cấu tứ của bài thơ là cấu tứ của ca dao với hai nhân vật trữ tình là ta và mình, người ra đi và người ở lại đối đáp với nhau. Nhưng ở đây, cấu tứ đó được thể hiện một cách gián tiếp qua việc sử dụng từ “mình, ta” trong lời của người cán bộ cách mạng.
Tố Hữu đã phát huy được nhiều thế mạnh của thể lục bát truyền thống. Nhà thơ rất chú ý sử dụng kiểu tiểu đối của ca dao, chẳng những có tác dụng nhấn mạnh ý mà còn tạo ra nhịp điệu uyển chuyển, cân xứng, hài hoà, làm cho lời thơ dễ nhớ, dễ thuộc, thấm sâu vào tâm tư.
Về ngôn ngữ, Tố Hữu chú ý sử dụng lời ăn tiếng nói của nhân dân rất giản dị, mộc mạc nhưng cũng rất sinh động để tái hiện lại một thời cách mạng và kháng chiến đầy gian khổ mà dạt dào tình nghĩa.
3. Kết bài: Đây chỉ là một đoạn thơ 12 câu trong tổng số 150 câu của bài thơ nhưng những thành công của nó về nội dung và nghệ thuật có thể xem là tiêu biểu cho giá trị của cả bài thơ. Mỗi câu thơ, lời thơ của đoạn thơ này một khi đã để lại những ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc sẽ tạo nên được những rung động, những nghĩ suy để nhớ mãi lời nhắn nhủ về ân tình thủy chung, đoàn kết gắn bó giữa cách mạng và nhân dân như ý nghĩa sâu xa của thông điệp mà Tố Hữu muốn nhắn gửi trong bài thơ này.
Tố Hữu, một cái tên không hề xa lạ với bạn đọc yêu thơ . Quả thật là vậy, chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định Tố Hữu đã và sẽ luôn là ngọn cờ tiên phong tiêu biểu cho nền thơ ca Cách mạng Việt Nam. Ở Tố Hữu, con người chính trị và con người nhà thơ gắn bó chặt chẽ với nhau, sự hòa hợp giữa chất trữ tình và chính trị được ẩn hiện qua từng tác phẩm mà nổi bật nhất là bài Việt Bắc.Đây là bài thơ ghi lại những tình cảm sâu nặng, những nỗi nhớ da diết của một người cán bộ về xuôi với con người thiên nhiên Tây Bắc. Đoạn thơ sau đã thể hiện sự nhớ nhung của tác giả với cảnh, người cùng cuộc kháng chiến:
Việt Bắc là căn cứ cách Mạng, là đầu não của cuộc kháng chiến chống pháp. Thiên nhiên và đồng bào Việt Bắc đã cưu mang, che chở cho Đảng và Chính phủ suốt 15 năm trời. Bài thơ Việt Bắc được sáng tác vào khoảng thời gian tháng 10/1954, là lúc các cơ quan Trung ương của Đảng và chính phủ rời khỏi Tây Bắc để trở về Hà Nội. Đây là một bài thơ dài ghi lại tình cảm lưu luyến của cán bộ và nhân dân và cũng là lời khẳng định tình cảm thủy chung của người cán bộ về xuôi với Việt Bắc, với cuộc kháng chiến, với cách mạng. Đoạn trích trên nằm ở khổ ba của phần I bài thơ nói về những kỷ niệm cùng nỗi nhớ với thiên nhiên con người Việt Bắc.
Một nỗi nhớ da diết, khôn nguôi được tác giả hình dung thật lạ:
Một chữ “gì” hàm chứa biết bao điều, phải chăng đó chính là nỗi nhớ thiên nhiên, với nhân dân cùng quãng thời gian kháng chiến đầy ấp kỷ niệm. Nhớ “như nhớ người yêu”, hình ảnh so sánh thật đầy ý nghĩa, nỗi nhớ sao thật dai dẳng triền miên, luôn thường trực trong tâm trí. Một khung cảnh hiện ra đã hoàn toàn khẳng định đối tượng được nhớ đến – Việt Bắc: ”Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương” rồi sau đó là những hình ảnh miêu tả không gian thơ mộng đậm chất núi rừng Việt Bắc
Hình ảnh thiên nhiên Việt Bắc được liệt kê đến từng chi tiết. Rõ ràng tác giả vẫn nhớ rất rõ những kỷ niệm cùng khung cảnh Việt Bắc. “Người thương”, hai chữ thôi nhưng chứa đựng biết bao ân tình. Đây chính là những con người Việt Bắc đã cưu mang, che chở cho cán bộ trong suốt một quãng thời gian dài gian khó. “Bếp lửa” – hình ảnh của một gia đình ấm cúng thường thấy, Phải chăng tác giả đã xem nơi đây như là gia đình thứ hai của mình.Vần chân “sương” và “người thương” làm cho giọng điệu câu văn trở nên da diết, diễn tả một nỗi nhớ bịnh rịnh, lưu luyến, không muốn rời xa. Vẫn tiếp tục là nỗi nhớ, nhưng dường như ngày càng sâu đậm hơn với những tên gọi địa danh gắn liền với quá khứ cách mạng mà tác giả từng trải qua:
Dù là một nơi nhỏ trong chốn núi rừng Việt Bắc bao la, nhưng dường như trong ký ức của tác giả nó cũng trở nên quan trọng, không bao giờ có thể quên.Một sự khẳng định chắc chắn…không bao giờ có thể quên:
Dù bản thân có đi xa, dù có ở nơi chốn nào thì vẫn sẽ luôn nhớ về “mình”. Ngôn từ xưng hô thật giản dị mà thân thương. “Mình” cùng “ta” nào có thể quên được những “đắng cay ngọt bùi” đã trải qua. Hình ảnh ẩn dụ “đắng cay” chính là những khó nhọc, gian nan mà nhân dân cùng cán bộ đã phải trải qua trong suốt thời kỳ kháng chiến, còn niềm vui chiến thắng không gì khác chính là “ngọt bùi”. Từng nỗi nhớ như tràn ngập trong tâm hồn Tố Hữu biểu hiện cho một tình cảm sâu nặng tựa như nỗi tương tư đến “người thương”. Điệp từ “nhớ” được lặp đi lặp lại càng khắc sâu hơn sự nhớ nhung nghìn trùng tha thiết của tác giả đối với Việt Bắc.
Cả đoạn thơ mang đậm màu sắc dân tộc, thể hiện rõ hồn thơ của Tố Hữu. Điệp từ “nhớ” cùng lối so sánh đặc biệt để bộc lộ một cảm xúc thương nhớ dạt dào.Cách gieo vần, sử dụng tài tình thể thơ lục bát đã làm cho đoạn thơ mang âm điệu ngọt ngào, êm ái. Việc liệt kê một loạt những hình ảnh cùng địa danh của Việt Bắc đã khắc họa thật sâu nỗi niềm thương nhớ của một người chiến sĩ – thi sĩ đối với quê hương thứ hai của mình.Play
Đoạn thơ trên chính là bản tình ca về lòng chung thủy sắt son, chính là tiếng lòng của nhà thơ, hay cũng chính là của những người Việt Nam trong kháng chiến. Với những câu thơ dạt dào cảm xúc, Tố Hữu đã thể hiện thành công tình cảm của người cán bộ dành cho thiên nhiên, nhân dân Việt Bắc không chỉ là tình cảm công dân xã hội mà còn là sự sâu nặng như tình yêu lứa đôi. Nhờ vậy Việt Bắc đã trở thành thành phần tiêu biểu cho văn học Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp.
Bằng những vần thơ đậm chất dân tộc, nỗi nhớ cùng tình cảm chung thủy sắt son giữa người cán bộ với nhân dân, thiên nhiên Việt Bắc cùng cuộc kháng chiến được khắc họa rõ nét. Thật hiển nhiên, Tố Hữu xứng đáng trở thành ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam.
Bài thơ Việt Bắc được sáng tác nhân một sự kiện chính trị – xã hội. Đó là việc Trung ương Đảng và Chính phủ chuyển về thủ đô khi thủ đô được giải phóng. Suốt mười lăm năm gắn bó với Việt Bắc, trong giờ phút chia tay bịn rịn, Tố Hữu rất xúc động và đã viết nên bài thơ. Bài thơ có dáng dấp là một bản tổng kết lịch sử. Tựa đề bài thơ được lấy làm tựa đề cho cả tập thơ kháng chiến của Tố Hữu và được tôn vinh là một trong một trăm bài thơ hay nhất thế kỉ XX của Việt Nam.
Đoạn thơ mang âm hưởng chung của bài thơ với thể lục bát ngọt ngào, kết cấu đối đáp, các thi liệu và cách nói quen thuộc của ca dao. Đoạn thơ là nỗi nhớ Việt Bắc của người ra đi, và là lời của người ra đi.
Câu thơ đầu của đoạn thơ chứa đựng một sự so sánh đáng chú ý: “Nhớ gì như nhớ người yêu”. Câu thơ không phải đang nói tới nỗi nhớ người yêu mà là nỗi nhớ Việt Bắc. Nhớ Việt Bắc mà giống như nhớ người yêu. Tố Hữu là người ít viết về tình yêu lứa đôi, nhưng không có nghĩa là không có những cảm xúc đó. Câu thơ thật đúng với tâm trạng người đang yêu. Nhớ Việt Bắc mà đến độ ngất ngây, nồng nàn, say mê mà dịu ngọt. Thơ Tố Hữu chứa đựng những tình cảm lớn: hướng về đất nước, về nhân dân, nhưng khi thể hiện những tình cảm này ông đã nói bằng ngôn ngữ của đôi tình nhân say đắm. Nỗi nhớ ấy cứ ám ảnh trong tâm trí suốt cả thời gian, không gian khiến người ra đi thốt lên nửa như cảm thán, nửa như so sánh, nửa như nghi vấn khiến câu thơ có sức gợi cảm đặc biệt. Trong những câu tiếp theo, bức tranh Việt Bắc với những cảnh sắc thân thuộc đã được thể hiện rất sinh động:
Ở đây nhà thơ không tả chi tiết mà chỉ gợi nhắc. Vì đối với những người trong cuộc thì chừng ấy thôi cũng khiến họ bồi hồi. Hình ảnh “trăng lên”, “nắng chiều” vừa nói nỗi nhớ xuyên suốt cả thời gian vừa như gợi lại kí ức một cuộc hẹn hò nào đó và những khoảnh khắc cuối ngày đong đầy niềm xao xuyến…
Hình ảnh bếp lửa gợi sự sum họp ấm cúng của người thương. Hình ảnh “bản khói cùng sương” đã thức dậy trong ta bao tình cảm với những bản làng xa xôi của Việt Bắc quanh năm mây mù bao phủ. Cụm từ “nhớ từng” được lặp lại nhằm khẳng định người đi không quên bất cứ nơi nào, bất cứ sự việc gì, địa danh nào, từ “ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê…” Tất cả đều có chỗ đứng trong tâm hồn của người ra đi. Suối Lê có lúc vơi lúc đầy nhưng tình cảm với Việt Bắc lúc nào cũng tràn đầy.
Dù xa cách nhưng người ra đi không thể quên những ngày gian khổ sống giữa lòng Việt Bắc:
Những sự chia sẻ trong lúc khó khăn bao giờ cũng để lại ấn tượng sâu đậm nhất. Tình người sáng lên trong những hoàn cảnh ngặt nghèo.
Hai câu tiếp là nỗi nhớ người Việt Bắc:
Với người mẹ, tấm lưng trần cháy nắng đã nói lên tất cả. Chi tiết này vừa thực lại gợi rất chính xác cuộc sống còn khó khăn của người Việt Bắc trong cuộc mưu sinh. Thế mà họ đã “chia củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa’’ cho cách mạng. Thật đáng quý biết bao những tấm lòng của bà mẹ Việt Bắc, người dân Việt Bắc.
Những câu thơ còn lại tiếp tục nói về những gian khổ nhưng nghiêng về tinh thần lạc quan của người kháng chiến.
Các câu thơ còn lại gợi lên khá chi tiết, khá điển hình về đời sống ở chiến khu: có cơ quan, có tiếng học bài, tiếng ca, có ánh đuốc bập bùng giữa đồng khuya, có không khí liên hoan vui tươi phấn khởi. Quả là tư tưởng kháng chiến đã chi phối cách tổ chức cuộc sống một cách khoa học, quy củ, nề nếp, cũng như trạng thái tinh thần phấn chấn của người kháng chiến. Đằng sau đó, điều đáng nói hơn là tâm trạng nôn nao khó tả của con người. Điệp ngữ “nhớ sao” chỉ mức độ cao của nỗi nhớ lại vừa nói lên người đi thực sự sống trong nỗi nhớ, chứ không kể lại một cách khách quan, đơn thuần.
Hai âm thanh rất Việt Bắc vọng mãi trong tâm hồn người ra đi. Đó là tiếng mõ trâu về bản lúc chiều tà, tiếng chày thậm thình bên suối trong đêm khuya, thật khó quên. Chúng vừa thân thuộc lại vừa hoang dã, vừa gần gũi bên tai lại như vừa vọng lên từ một cõi xa xôi nào. Câu thơ hay thêm bởi được sự cộng hưởng của âm điệu. Đọc lên ta như nghe một dạ khúc thiết tha.
Bức tranh Việt Bắc được tái hiện cụ thể, sống động và một thời gian lao cũng được khắc họa khá chi tiết qua nỗi nhớ. Những vấn đề lớn lao của đất nước đã trở thành những vấn đề của trái tim, làm cho đoạn thơ ngọt ngào dễ tiếp nhận đối với bạn đọc.
Tố Hữu không chỉ là nhà hoạt động cách mạng lỗi lạc mà còn là nhà thơ cách mạng, ngọn cờ tiên phong tiêu biểu cho thơ ca cách mạng Việt Nam. Từ thời thanh niên, ông đã giác ngộ lý tưởng Cách mạng của Đảng và luôn hoạt động hăng say, năng nổ và dù ở nhà tù thực dân cũng không ngừng tin tưởng vào Đảng, con đường mình đã chọn. Có thể nói, chặng đường thơ của ông là chặng đường gắn với cách mạng. Thơ ông gắn với lịch sử dân tộc, lý tưởng cách mạng, Đảng và Bác Hồ đã đề ra qua từng thời kì kháng chiến. Ngoài ra, ở Tố Hữu, con người chính trị và con người thơ ca gắn bó chặt chẽ với nhau, hài hòa giữa chất chính trị và trữ tình, những điều này thể hiện rất rõ trong tác phẩm Việt Bắc. Đặc biệt trong đoạn thơ thứ 5 của tác phẩm thể hiện nỗi nhớ nhung của tác giả với con người, thiên nhiên cùng cuộc kháng chiến khi chia tay về xuôi:
Việt Bắc là căn cứ cách mạng, đầu não cuộc kháng chiến của quân và dân ta. Bài thơ được viết vào thời điểm cơ quan trung ương của Đảng rời khỏi Tây Bắc để về Hà Nội. Vì vậy ,những câu thơ trong bài thơ đều nói đến sự lưu luyến không nỡ rời đi đối với con người và thiên nhiên nơi đây. Đoạn trích trên nằm ở khổ 5 của toàn bộ bài thơ, thể hiện tình cảm lưu luyến đối với những con người nơi đây:
Nhớ người yêu là nỗi nhớ luôn thường trực da diết khôn nguôi. Nếu ai đã từng yêu, đang trong tình yêu hẳn có thể cảm nhận được nỗi nhớ này như thế nào. Vậy mà Tố Hữu lại dùng nỗi nhớ này để nói đến tình cảm của mình với con người nơi đây. Điều này cho thấy, tình cảm của nhà thơ dành cho con người Việt Bắc sâu nặng biết dường nào. Nỗi nhớ trào dâng, da diết khôn nguôi, như những người yêu nhau nhớ nhau vì sắp phải rời xa nhau. Nỗi nhớ “người yêu” được thể hiện qua những hình ảnh thiên nhiên đậm chất Việt Bắc. Đó là hình ảnh của ánh trăng trên đỉnh núi mờ sương và nắng chiều vắt ngang lưng. Một bức tranh thiên nhiên với hai miền sáng tối vừa đẹp, trữ tình mà lại dạt dào cảm xúc. Nỗi nhớ được lặp lại nhiều lần khi : “Nhớ gì như nhớ…” cho thấy sự da diết, sâu đậm , nỗi nhớ bao trùm cả cảnh vật thiên nhiên.
Hình ảnh thiên nhiên, cuộc sống của con người Việt Bắc hiện lên trong thơ rất chi tiết. Đó là hình ảnh khói mờ sương mỗi khi chiều xuống, từng bản làng chìm trong sương khói. Đặc biệt hai chữ Người thương hiện lên mới chân tình, da diết làm sao. Đây chính là những con người hiền lành, chân chất đã yêu thương, cưu mang che chở cho cán bộ suốt những năm tháng gian khó. Một tình cảm không có gì có thể thay thế và đầy sự biết ơn, quý trọng.
Bếp lửa, một hình ảnh của một gia đình ấm cúng thường thấy. Phải chăng, tác giả đã coi nơi đây như là nhà của mình, nay phải rời xa nên bịn rịn vô cùng, lưu luyến vô cùng.
Hình ảnh Việt Bắc hiện ra theo từng khung cảnh thân thuộc, từng địa điểm mà các cán bộ đã ở, đi qua. Đó là ngòi Thia, là sông Đáy, là suối Lê là cả rừng nứa, bờ tre… Tác giả nhớ chi tiết từng cảnh vật, từng khung cảnh, nó đã trở thành một phần kí ức quý giá không thể nào quên.
Ngôn từ xưng hô thật giản dị, thân thương. Tác giả dùng ngôi “ta – mình ” để nói về tình cảm dành cho đồng bào Việt Bắc. Đó là tình cảm thân thương, tình thân lưu luyến. Dù đi xa rồi nhưng vẫn nhớ thời gian bên nhau, vẫn nhớ những đắng cay ngọt bùi đã trải qua cùng nhau. Hình ảnh “Đắng cay” là ẩn dụ cho những khó nhọc, gian nan mà cán bộ đã trải qua suốt thời kì kháng chiến, và niềm vui chiến thắng chính là những ngọt bùi, tình cảm đồng bào dành cho cán bộ cũng là ngọt bùi khó quên.
Cả đoạn thơ mang màu sắc dân tộc, thể hiện hồn thơ Tố Hữu. Điệp từ nhớ được sử dụng nhiều lần thể hiện cảm xúc dạt dào, sâu sắc và lưu luyến. Tác giả đã thật tài tình khi sử dụng thể thơ lục bát, cùng cách gieo vần ngọt ngào, êm ái, khắc họa thật sâu niềm thương nhớ của một người chiến sĩ cách mạng với đồng bào Việt Bắc và coi đây là quê hương thứ hai của mình.
Khép lại khổ thơ ta vẫn thấy đâu đây tình cảm nồng thắm còn lưu luyến. Những câu thơ tuy mộc mạc, mà chân thành, chạm đến trái tim người đọc. Phải yêu mảnh đất con người nơi đây nhiều lắm, tác giả mới có thể viết lên những vần thơ hay đến và xúc động đến vậy. Một Việt Bắc nghĩa tình, dù có đi xa cũng không bao giờ quên.
Phải chăng mỗi một vùng đất ta đặt chân đến đều là những kỉ niệm đáng nhớ bởi thiên nhiên, cảnh vật và con người nơi đây. Với nhà thơ Tố Hữu khi đặt chân đến với núi rừng Việt Bắc cũng vậy, ông bị ấn tượng bởi thiên nhiên và con người nơi đây cho nên đã gửi gắm một tình yêu sâu sắc đối với Tây Bắc. Nỗi nhớ về thiên nhiên, về con người Việt Bắc Bắc của cán bộ về xuôi được nhà thơ Tố Hữu phác họa lại qua khổ thơ thứ 5 trong bài thơ “Việt Bắc” một cách đầy tinh tế:
Tố Hữu là nhà văn tiêu biểu của thơ ca cách mạng, ông có những đóng góp và cống hiến lớn cho văn học và cách mạng Việt Nam. Thơ của ông luôn song hành mật thiết với từng chặng đường của cách mạng. Bài thơ Việt Bắc được sáng tác vào tháng 7 năm 1954 và được đánh giá là một trong những bài thơ xuất sắc nhất của thơ ca thời kì kháng chiến chống Pháp. Khổ thơ thứ 5 của bài thơ “Việt Bắc” là tâm tình của người về xuôi nhớ tới những ân tình cách mạng.
Nỗi nhớ núi rừng Việt Bắc của người về xuôi được thể hiện ở 6 câu thơ đầu khổ thơ:
Nhà thơ sử dụng cách nói quen thuộc trong ca dao để diễn tả về nỗi nhớ Việt Bắc. Cách diễn tả nỗi nhớ đặt trong sự so sánh với nỗi nhớ người yêu thật độc đáo xuất phát từ tình cảm cách mạng để nói tới những ân tình cách mạng. Nỗi nhớ ấy thật khó tả bởi vì “Nhớ ai bổi hồi bồi hồi/ Như đứng đống lửa, như ngồi đống than”. Từ đó có thể thấy, nỗi nhớ của người về xuôi với Việt Bắc vô cùng da diết và cháy bỏng. Nhà thơ đã “phải lòng đất nước của mình” cho nên tình yêu đất nước được ông ví như tình yêu đôi lứa đầy cháy bỏng và nhiệt huyết của tuổi trẻ. Nỗi nhớ ấy còn bao trùm lên toàn bộ cảnh vật, lên cả thời gian và không gian qua hình ảnh trăng, qua từng bản khói, qua hình ảnh bếp lửa. Trăng vốn là hình ảnh quen thuộc trong thơ ca cách mạng bởi trăng là người bạn tâm tình của người chiến sĩ cách mạng. Trong bài thơ “Đồng chí” ta cũng bắt gặp hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong đêm chờ giặc tới của nhà thơ Chính Hữu. Nhưng trong “Việt Bắc” trăng lại gợi ra sự thơ mộng của núi rừng bởi đây chính là thời điểm hẹn hò thích hợp của đôi lứa. Nỗi nhớ về Việt Bắc lan tỏa ra cả lưng nương bởi tình yêu đối với con người lao động miệt mài của người về xuôi. Tình cảm ấy được khẳng định bởi “sớm khuya bếp lửa” gắn liền với tình cảm yêu mến của “người thương đi về”. Không chỉ vậy, nỗi nhớ về Việt Bắc còn được mở rộng theo vùng không gian trong khu căn cứ Việt Bắc với “Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”.
Không chỉ nhớ về thiên nhiên, về con người Việt Bắc mà người về xuôi còn nhớ tới những kỉ niệm ở Việt Bắc cùng đồng đội:
Có lẽ những năm tháng kháng chiến đã để lại trong lòng người cán bộ về xuôi một kỉ niệm không bao giờ phai mờ. Hoàn cảnh khó khăn của cuộc kháng chiến khiến họ phải chia nhau từng củ sắn, bát cơm, mảnh chăn nhỏ. Đó là những ngày tháng đồng cam cộng khổ vì một mục tiêu cao cả đó là giải phóng đất nước thoát khỏi ách thống trị của thực dân Pháp. Thời gian chung sống với đồng bào Việt Bắc đã khiến cho người về xuôi nhớ cả đến hình ảnh người mẹ hiền từ, tần tảo sớm hôm “địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô” mà không quản gian lao khó nhọc để nuôi sống gia đình và tiếp sức cho cán bộ kháng chiến. Những tình thương yêu cao cả và vô cùng đẹp đẽ đó đã khiến cho người về xuôi không khỏi xót thương và cảm phục trong lòng. Những tiếng đánh vẫn ngọng nghịu của lớp học “i tờ” cũng khiến cho người về xuôi phải bồi hồi khi nhớ về Việt Bắc bởi đó là niềm vui, niềm tự hào của đồng bào miền núi khi được học chữ của cách mạng, của Bác Hồ. Nỗi nhớ của người về xuôi còn hướng về những năm tháng cơ quan với tiếng hát say sưa yêu đời hòa chung cùng tiết tấu tiếng nhạc “chày đêm nện cối đều đều suối xa”.
Khổ thơ đã thể hiện nỗi nhớ của người cán bộ về xuôi với cảnh vật và con người và những kỉ niệm cùng với đồng đội khi còn ở Việt Bắc. Nhịp điệu hài hòa, uyển chuyển, ngôn ngữ giản dị, mộc mạc nhưng đi sâu vào tâm trí người đọc, thể hiện tài năng sáng tác của Tố Hữu. Bởi vậy mà bài thơ “Việt Bắc” được đánh giá là một bản tình ca và một khúc hùng ca hoành tráng.
Qua khổ thơ thứ 5 của bài thơ “Việt Bắc” ta thấy được nỗi nhớ da diết của người về xuôi với Việt Bắc. Đó là tình cảm da diết, chân tình với cách mạng của những tấm lòng yêu nước. Đoạn thơ đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc bởi những ngôn từ nhẹ nhàng, da diết có chút hóm hỉnh của nhà thơ Nguyễn Tuân.
Tố Hữu là nhà thơ lớn của dân tộc, là “con chim đầu đàn” của thơ ca Cách mạng Việt Nam thế kỉ XX. Sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu gắn liền với sự nghiệp cách mạng, thơ ông luôn gắn bó và phản ánh chân thật những chặng đường cách mạng. Nhắc đến ông, ta chẳng thể nào quên được những tập thơ: Từ ấy, Việt Bắc, Ra trận, Máu và hoa,… Tiêu biểu trong số đó là bài thơ “Việt Bắc”, là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Thể hiện sự gắn bó, ân tình sâu nặng với nhân dân, đất nước trọn niềm tự hào dân tộc. Đặc biệt là đoạn trích
Việt Bắc là khu căn cứ của cách mạng Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi. Tháng 7/ 1954, hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được kí kết. Hòa bình lập lại, miền Bắc được giải phóng và đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tháng 10/ 1954, Đảng và Chính phủ rời Việt Bắc về Hà Nội, những người kháng chiến (trong đó có Tố Hữu) từ căn cứ miền núi về miền xuôi chia tay Việt Bắc, chia tay khu căn cứ Cách mạng trong kháng chiến. Nhân sự kiện có tính lịch sử này Tố Hữu sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Bài thơ “Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp.
Chia xa mảnh đất mình từng gắn bó, ai mà chẳng nhớ chẳng thương. Thế nhưng hiếm có thi sĩ nào mang trong tim nỗi nhớ tha thiết, khắc khoải, cháy bỏng khi dã từ chiến khu Việt Bắc: “Nhớ gì như nhớ người yêu”. Một dòng thơ mà hai lần chữ “nhớ” được láy lại. Nỗi nhớ cứ lơ lửng ám ảnh mãi tâm trí người đi đến mức không thể kìm nén được. Lời thơ buông ra với ngữ điệu hết sức đặc biệt, nửa như nghi vấn, nửa như cảm thán tạo ấn tượng, ám ảnh người đọc. “Như nhớ người yêu” là hình ảnh so sánh, ví von thật lãng mạn, tình tứ. Nỗi nhớ Việt Bắc được cảm nhận như nỗi nhớ thương người yêu. Có khi ngẩn ngơ, ngơ ngẩn; có khi bồn chồn, bối rối, bổi hổi, bồi hồi. Khi da diết khắc khoải, khi lại đau đáu thăm thẳm. Nỗi nhớ khi chia xa Việt Bắc phải chăng hàm chứa mọi cung bậc cảm xúc ấy. Một nỗi nhớ nồng nàn, đằm thắm, tha thiết. Với hình ảnh so sánh này, Tố Hữu thực sự là một tình nhân đắm đuối trước Việt Bắc, trước nhân dân đất nước mình. Cùng với những câu thơ “Mình về mình có nhớ ta – Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng, Áo chàm đưa buổi phân lí – Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”, tứ thơ “Nhớ gì như nhớ người yêu” đã đưa thi phẩm Việt Bắc trở thành khúc tình ca bậc nhất trong thơ ca Cách mạng. Quả không sai khi Xuân Diệu nhận xét: Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ thơ rất đỗi trữ tình. Khám phá câu thơ “Nhớ gì như nhớ người yêu”, ta bỗng vỡ lẽ hiểu ra rằng lối kết cấu đối đáp cùng cách xưng hô “ta – mình” trong Việt Bắc không đơn thuần là sáng tạo hình thức, là câu chuyện ngôn ngữ. Tình cảm giữa cán bộ Cách mạng và đồng bào chiến khu thiết tha, mặn nồng như tình đôi lứa khiến nhà thơ tìm đến cách cấu tứ xưng hô như vậy.
Chảy về trong nỗi nhớ niềm thương là cảnh sắc Việt Bắc thơ mộng hiền hòa:
Những câu thơ như một bức họa gợi cảm về cảnh rừng Việt Bắc thơ mộng, hữu tình. Có đêm trăng huyền ảo, mảnh trăng lấp ló nơi đầu núi, có những chiều tỏa nắng trên nương và hình ảnh những nếp nhà, bản làng thấp thoáng trong sương khói bồng bềnh. Không miêu tả chi tiết, Tố Hữu chỉ chấm phá, khơi gợi. Tuy nhiên, với những người trong cuộc, chỉ chừng ấy thôi cũng đủ bồi hồi, xao xuyến biết bao. Hòa cùng vẻ đẹp bình dị và thơ mộng của thiên nhiên Việt Bắc là hình ảnh con người Việt Bắc rất đỗi thân thương: Sớm khuya bếp lửa người thương đi về. Hình ảnh thơ gợi tả tinh tế sự tần tảo, đảm đang, chịu thương, chịu khó của những cô gái nuôi quân nơi chiến khu Việt Bắc. Không quản khó nhọc gian nan, những thiếu nữ Việt Bắc vẫn sớm hôm cần mẫn nuôi dấu cán bộ. Hình ảnh bếp lửa gợi những buổi đoàn tụ ấm cùng và nghĩa tình quân dân nồng đượm. Tình quân dân, cách mạng mà mang không khí ấm áp, yêu thương như tình cảm gia đình. Cách nói “người thương” khéo léo, nhiều sức gợi, chứa chan tình cảm dịu dàng mà nồng nàn, yêu thương. Hẳn trong trái tim nhà thơ đã để thương một người con gái Việt Bắc biết hi sinh vì Cách mạng.
Những đồi tre bát ngát, những dòng suối mát trong, con sông hiền hòa, tất cả cứ in sâu trong nỗi nhớ người về. Nhắc đến dòng sông, đồi núi, rừng nứa, bờ tre là dưng dưng bao kỉ niệm, đong đầy bao yêu thương. Những cái tên: Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê có lẽ không đơn thuần chỉ là những địa danh mà còn ẩn dấu bao kỉ niệm cảm xúc. Những gắn bó gian khổ, ngọt bùi đã trở thành những kỷ niệm da diết trong trái tim người đi khó có thể quên được. Biết bao những xúc động bồi hồi cùng những ngọt ngào dưng dưng dồn chứa trong mấy chữ “đắng cay, ngọt bùi” cùng dấu chấm lửng cuối dòng thơ. Người đi muốn nhắn gửi với người ở lại rằng người về xuôi sẽ không quên bất cứ một kỉ niệm, một kí ức nào.
Đặc biệt, trong bài thơ, Tố Hữu đã viết nên một khúc ca hùng tráng về con người kháng chiến và cuộc kháng chiến. Điều đó thể hiện rõ trong đoạn thơ sau:
Thứ nhất, đoạn thơ đã tái hiện nên những hình ảnh hào hùng của quân và dân ta trong kháng chiến. Cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta là một cuộc kháng chiến toàn dân. Các tầng lớp nhân dân bất phân già trẻ, gái trai, lớn bé đều tham gia kháng chiến. Trong đó, nổi bật nhất là hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ. Người lính thời chống Pháp đã trải qua biết bao nhiêu hi sinh gian khổ nhưng rất hùng tráng và đầy lạc quan.
Hình ảnh hào hùng của đoàn quân ấy được thể hiện trong hai câu đầu của đoạn thơ:
Câu thơ thứ hai được ngắt theo nhịp 4/4:”Ánh sao đầu súng / bạn cùng mũ nan”càng làm tăng thêm vẻ đẹp của người lính – một vẻ đẹp vừa mang tính lãng mạn vừa mang tính hiện thực sâu sắc. Hình ảnh “Ánh sao đầu súng” có thể là hình ảnh ánh sao trời treo trên đầu súng của những người lính trong mỗi đêm hành quân như “Đầu súng trăng treo” trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu; “ánh sao đầu súng” ấy cũng có thể là ánh sáng của ngôi sao gắn trên chiếc mũ nan của người lính, ánh sáng của lí tưởng cách mạng soi cho người lính bước đi, như nhà thơ Vũ Cao trong bài Núi đôi đã viết:
Góp phần vào sự hào hùng của cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta có cả một tập thể quần chúng nhân dân tham gia kháng chiến. Họ là những “dân công đỏ đuốc từng đoàn” tải lương thực, súng đạn để phục vụ cho chiến trường. Hình ảnh của họ cũng thật đẹp, thật hào hùng và đầy lạc quan không kém những người lính:
Bằng một cách nói cường điệu “dấu chân nát đá ”, nhà thơ đã làm nổi bật sức mạnh yêu nước, yêu lí tưởng cách mạng, ý chí quyết tâm đánh thắng quân thù của người nông dân lao động. Người nông dân lao động (lực lượng nòng cốt của cách mạng) là lực lượng góp phần rất lớn để đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi hoàn toàn sau này – Họ là những người nông dân đôn hậu, chất phác, lớn lên từ bờ tre, gốc lúa nhưng họ đi vào cuộc kháng chiến với tất cả những tình cảm và hành động cao đẹp, họ bất chấp những hi sinh, gian khổ, chấp mưa bom bão đạn của quân thù, đạp bằng mọi trở lực để đi theo tiếng gọi của lòng yêu nước và lí tưởng cách mạng
Với lối thơ lục bát ngọt ngào như ca dao, với chất thơ trữ tình cách mạng, thật sôi nổi, hào hùng, thiết tha, nhà thơ Tố Hữu trong đoạn thơ này đã thể hiện nổi bật tấm lòng chân tình của cán bộ kháng chiến với Việt Bắc cũng như khí thế hào hùng của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp ở Việt Bắc.
Tố Hữu là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam nói chung và nền thơ ca cách mạng nói riêng, thơ của ông luôn song hành cùng với những cột mốc cách mạng của dân tộc. Đặc biệt, bài thơ Việt Bắc được in trong tập thơ cùng tên được xem là một đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cùng là một tác phẩm xuất sắc của văn học Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Việt Bắc là mở đầu phần I của bài thơ Việt Bắc vốn dĩ viết về hoàn cảnh chia tay của quân và dân ta đầy lưu luyến, bịn rịn giữa kẻ ở – người đi, những con người đã từng gắn bó lâu dài (15 năm từ 1945 – 1954) với biết bao nghĩa tình sâu nặng sau chiến thắng 1954. Điều đó được thể hiện rất rõ qua khổ 5 bài Việt Bắc.
Nhà thơ đã so sánh nỗi nhớ ở đây giống như nỗi nhớ người yêu, để trữ tình hóa tình cảm cách mạng, tình quân dân để tất cả trở nên tha thiết hơn, dịu ngọt hơn. Và cũng bởi lẽ nỗi nhớ trong tình yêu là nỗi nhớ thẳm sâu và tha thiết nhất, từ nỗi nhớ ấy, Việt Bắc hiện ra với một không gian thật thơ mộng, câu thơ “Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương” đã thể hiện nỗi nhớ lan tỏa trong không gian và ngự trị trong từng khoảnh khắc của thời gian, cả đêm lẫn ngày. Hình ảnh “Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.” gợi về một miền Việt Bắc mến thương, nồng nàn, ấm áp. Điệp ngữ “nhớ từng” cho chúng ta những cảm nhận như nhà thơ đang lật giở từng trang ký ức, Tố Hữu đã liệt kê những địa danh “sông Đáy, suối Lê” và đến hai tiếng vơi đầy khép lại đoạn thơ thì đây không chỉ còn đơn thuần là địa danh mà là nơi đong đầy kỷ niệm: Bao nhiêu nước, bao kỷ niệm đầy vơi, bao nghĩa tình ấm áp ngọt ngào.
Cụm từ “Ta đi ta nhớ…” là lời tâm sự chân thành và là lời nhắn nhủ tha thiết của người đi dành cho những người ở lại, của người cách mạng dành cho mảnh đất Việt Bắc anh hùng, cụm từ “Mình đây ta đó…” kết hợp với “đắng cay ngọt bùi” càng nhấn mạnh hơn những ân tình sâu thẳm. Hai tiếng “thương nhau”, thật nhẹ nhàng nhưng cũng thật sâu lắng, người đi kẻ ở “Thương nhau chia củ sắn lùi”, “Bát cơm xẻ nửa, chăn sui đắp cùng” đã thể hiện những tình cảm đùm bọc, chia sẻ, gắn bó khăng khít đậm đà nghĩa tình quân dân, chính sức mạnh đoàn kết ấy đã tạo nên chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng.
Nhà thơ đã khắc họa hình ảnh người mẹ “Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”, đây là một hình ảnh đẹp, gợi nhiều cảm xúc, từ “cháy” rất giàu hình tượng nhấn mạnh nỗi vất vả gian lao của người mẹ trong kháng chiến. Tác giả sử dụng điệp ngữ “Nhớ sao” là nỗi nhớ đầy cảm xúc cùng với đó là những hoạt động ở chiến khu Việt Bắc: Lớp học i tờ, những giờ liên hoan, ca vang núi đèo, đã tạo nên một không khí vui tươi thấm đẫm tình đoàn kết quân dân, thể hiện tinh thần lạc quan cách mạng, niềm tin cách mạng nhất định thắng lợi: Dù bom đạn, chiến tranh, đau thương, gian khổ, quân và dân vẫn gắn bó với nhau trong khúc nhạc hân hoan, rộn ràng. Đoạn thơ rất giàu nhạc điệu là khúc ca ca ngợi cuộc sống vẫn đẹp, nghĩa tình vẫn sâu chan chứa trong lòng người cách mạng và núi rừng Việt Bắc thân thơ.
Khép lại đoạn trích đó là những lời ca ngợi Đảng, ca ngợi Bác Hồ Chí Minh, khẳng định vai trò quan trọng thiêng liêng Việt Bắc trong cách mạng và kháng chiến. Việt Bắc chính là cội nguồn, là chân lý nơi nuôi dưỡng và tiếp thêm sức mạnh. Và Việt Bắc cũng là nơi khai sinh ra những địa danh mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc.
Tố Hữu là một nhà thơ lớn của nền thơ ca hiện đại nước nhà, một cây bút trữ tình chính trị nổi bật với những bài thơ lưu lại trong trái tim người đọc nhiều dấu ấn, cảm xúc. “Việt Bắc” là một tác phẩm tiêu biểu trên chặng đường thơ ông, góp phần khẳng định tên tuổi, tâm hồn và tài năng của hồn thơ này. Trong tác phẩm, đoạn thơ thứ năm đã thực sự để lại nhiều nghĩ suy trong tâm hồn mỗi bạn đọc, góp vào sự sâu sắc và độc đáo của bài thơ.
Nhà thơ Tố Hữu là người con đất Quảng Điền, Thừa Thiên – Huế, cái nôi của văn học dân gian Việt Nam. Có lẽ những nét đẹp của mảnh đất ấy đã bồi tụ nên một hồn thơ dạt dào cảm xúc, sáng tác nên những vần thơ, trang thơ đượm sâu tình cảm, cảm xúc. Nói đến Tố Hữu và sự nghiệp văn học của ông, nhiều người nói chặng đường thơ ông gần như song hành với những giai đoạn lịch sử quan trọng, đáng nhớ của dân tộc. Những tác phẩm ở mỗi thời kỳ của nhà thơ đều có những nét đẹp riêng lưu lại nhiều ấn tượng. Việt Bắc, cái nôi của Cách mạng Việt Nam, cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp, miền đất ấy, con người ấy đã chắp cánh cho hồn thơ người nghệ sĩ, người cán bộ cách mạng Tố Hữu viết nên bài thơ “Việt Bắc”. Đoạn thơ thứ năm trong tác phẩm được đánh giá là một đoạn thơ đặc sắc với nhiều giá trị nội dung, nghệ thuật ý nghĩa.
Nghĩ về người con Việt Bắc, những đồng bào thân thương một thời gắn bó thủy chung, nghĩa tình, một nỗi nhớ da diết, đậm sâu bỗng trào dâng trong trái tim, tâm hồn người cán bộ cách mạng, hay có lẽ cũng chính là tiếng lòng Tố Hữu. Nhà thơ gợi ra hình ảnh người mẹ của nhân dân, người mẹ nuôi bộ đội với hình ảnh gần gũi và rất đỗi thiêng liêng:
Một người mẹ chịu thương chịu khó. Một người mẹ tảo tần vì con, vì bộ đội, vì đất nước, nhân dân. Đó là người mẹ Việt Bắc từng ngày lao động miệt mài đóng góp cho cuộc kháng chiến, từng ngày nuôi giấu cán bộ cách mạng. Viết về người mẹ ấy, nhà thơ Tố Hữu có hình ảnh “nắng cháy lưng”. Không tả rõ nét dáng hình người mẹ Việt Bắc, chỉ ba chữ đó thôi cũng đã đủ tái hiện lên chân thực, trọn vẹn vẻ đẹp tâm hồn, vẻ đẹp lao động của người mẹ Việt Nam thời chiến. Gần gũi, bình dị nhưng vô cùng mạnh mẽ, trang thơ Tố Hữu cho ta thấy mẹ là một phần của những trang sử hào hùng, là hậu phương đắp bồi yêu thương, sức mạnh cho những người lính chắc tay súng ra chiến trường giành lại tự do cho dân tộc, đất nước.
Tiếp nối trong dòng chảy ký ức dạt dào, thiết tha ấy, nhà thơ Tố Hữu gợi ra một bức tranh Việt Bắc với khung cảnh, với nhịp sống, âm thanh quen thuộc:
Bên cạnh cái khốc liệt của khói lửa chiến tranh, cái tang thương của mất mát, hy sinh, vẫn còn rộn rã ở đó một cuộc sống ngập tràn âm thanh nơi miền cao Việt Bắc. Bên cạnh những giờ tập luyện mệt nhoài chuẩn bị cho cuộc chiến, những giây phút căng thẳng khi đối mặt địch, các cán bộ cách mạng của ta cũng hòa mình vào cuộc sống nơi núi rừng Việt Bắc, cùng đồng bào, cùng nhân dân xây dựng cuộc sống. Những người cán bộ đến gieo hy vọng về ngày độc lập. Họ gieo con chữ, họ thắp niềm tin, những lớp Nha bình dân học vụ để xóa mù chữ cho đồng bào vì thế mà được mở ra ở khắp mọi nơi. Hồ hởi, phấn chấn và ngập tràn hy vọng, không khí đó dường như ắp đầy khắp các bản làng Việt Bắc, ngập tràn trong hình dung tưởng tượng của mỗi người đọc khi đến với trang thơ giàu hình ảnh, cảm xúc của Tố Hữu.
Với vốn ngôn ngữ phong phú, giàu hình ảnh của mình, nhà thơ Tố Hữu đã giúp người đọc hình dung ra không gian, không khí rộn ràng niềm vui của quân dân Việt Bắc sau những giờ phút chiến đấu ác liệt. Văng vẳng trong không gian thanh bình ấy là tiếng “mõ rừng chiều” gọi trâu về của người lao động. Âm thanh tiếng giã gạo đêm khuya, tiếng chày tiếng cối hòa cùng tiếng suối xa càng đậm tô thêm bức tranh sinh hoạt thân thương, gần gũi, tràn đầy sức sống nơi núi rừng Việt Bắc. Những âm thanh ấy cùng hòa quyện lại, một cách rất riêng, tạo nên một khúc nhạc ấn tượng mà chỉ riêng núi rừng Việt Bắc có, do những con người Việt Bắc cùng cán bộ cách mạng thời kỳ kháng chiến xây đắp nên.
Bài thơ “Việt Bắc” đã gieo vào trái tim người đọc bao thế hệ rất nhiều cảm xúc, nghĩ suy khác nhau. Ở mỗi đoạn thơ, mỗi hình ảnh, nhịp điệu thơ đều chứa chan tâm tư người chiến sĩ hay cũng chính là nhà thơ. Khổ thơ thứ năm đã góp phần đem đến sự thành công cho tác phẩm, những giá trị nội dung, nghệ thuật của “Việt Bắc” đã góp phần làm tăng sự giàu có, đa dạng trong chùm thơ kháng chiến đồng thời khẳng định tài năng, sự tinh tế trong hồn thơ Tố Hữu.
Tố Hữu – một cái tên không hề xa lạ với bạn đọc yêu thơ. Quả thật là vậy, chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định Tố Hữu đã và sẽ luôn là ngọn cờ tiên phong tiêu biểu cho nền thơ ca Cách mạng Việt Nam. Ở Tố Hữu, con người chính trị và con người nhà thơ gắn bó chặt chẽ với nhau, sự hòa hợp giữa chất trữ tình và chính trị được ẩn hiện qua từng tác phẩm mà nổi bật nhất là bài Việt Bắc. Đây là bài thơ ghi lại những tình cảm sâu nặng, những nỗi nhớ da diết của một người cán bộ về xuôi với con người thiên nhiên Tây Bắc. Đoạn thơ sau đã thể hiện sự nhớ nhung của tác giả với cảnh, người cùng cuộc kháng chiến:
Việt Bắc là căn cứ cách Mạng, là đầu não của cuộc kháng chiến chống pháp. Thiên nhiên và đồng bào Việt Bắc đã cưu mang, che chở cho Đảng và Chính phủ suốt 15 năm trời. Bài thơ Việt Bắc được sáng tác vào khoảng thời gian tháng 10/1954, là lúc các cơ quan Trung ương của Đảng và chính phủ rời khỏi Tây Bắc để trở về Hà Nội. Đây là một bài thơ dài ghi lại tình cảm lưu luyến của cán bộ và nhân dân và cũng là lời khẳng định tình cảm thủy chung của người cán bộ về xuôi với Việt Bắc, với cuộc kháng chiến, với cách mạng. Đoạn trích trên nằm ở khổ ba của phần I bài thơ nói về những kỷ niệm cùng nỗi nhớ với thiên nhiên con người Việt Bắc.
Nỗi nhớ trong Việt Bắc là tình cảm Chính trị, đó là tình cảm ân nghĩa thủy chung, với nguồn cội, sự tri âm, niềm gắn bó với đồng bào Việt Bắc. Tuy nhiên nhà thơ đã phổ vào đề tài chính trị ấy những cung bậc cảm xúc rất mực trữ tình. Hình ảnh so sánh “như nhớ người yêu” đã đẩy cảm xúc lên đến độ căng để bộc lộ tình cảm mãnh liệt, nồng nàn của nỗi nhớ. Tình đồng chí đồng bào đằm thắm nồng nàn trẻ trung như tình yêu đôi lứa. Nỗi nhớ thương đã hội tụ hai cảm xúc của ca dao: ly biệt và tương tư. Từ đó lời thơ trở nên thiết tha chan chứa.Điệp từ Nhớ đứng đầu các câu lục giống như một đôi mắt nhìn sâu vào trong tâm trí của mình để thấy hình ảnh đất và người Việt Bắc hiện ra thật mến thương thân thuộc.
Nỗi nhớ tìm về với những khoảnh khắc không gian thời gian thơ mộng trữ tình. Đó là những đêm trăng lên đầu núi, những chiều lắng đọng lưng nương, phảng phất không gian, thời gian hò hẹn của lứa đôi. Việt Bắc trong tâm trí người ra đi không chỉ là những bản làng ẩn hiện trong sương khói mà còn là những sớm khuya thấp thoáng bóng người thường đi về trong bếp lửa. Hình ảnh bếp lửa gợi ra không gian của một mái ấm hiện hữu trong bóng dáng người thương nồng đượm ân tình.
Địa danh “ngòi Thia, Sông Đáy, suối Lễ” gắn với những sự kiện và dấu ấn cách mạng. Cái vơi đầy của sông suối cũng là cái vơi đầy của lòng người, của nỗi nhớ thương bắt nhịp trong tâm trí người ra đi.
Những kỷ niệm đời sống kháng chiến như bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng gợi ra cái nghĩa tình sâu nặng, sự đồng cam cộng khổ của đồng bào Việt Bắc trong những ngày kháng chiến gian khổ. Hình ảnh người mẹ nắng cháy lưng địu con lên rẫy hái từng bắp ngô đã gợi ra cái vất vả nhọc nhằn của con người Việt Bắc. Hình ảnh lớp học i tờ, âm thanh tiếng mõ, tiếng chày đêm lại mở ra một miền ký ức khác của đời sống kháng chiến. Đó là những giờ phút đầm ấm thanh bình toả ra niềm vui niềm lạc quan cách mạng. Đoạn thơ là những cung bậc khác nhau của đời sống kháng chiến đọng lại trong ký ức người ra đi những ký ức không phai, những dáng hình thân thuộc.
Cả đoạn thơ mang đậm màu sắc dân tộc, thể hiện rõ hồn thơ của Tố Hữu. Điệp từ “nhớ” cùng lối so sánh đặc biệt để bộc lộ một cảm xúc thương nhớ dạt dào.Cách gieo vần, sử dụng tài tình thể thơ lục bát đã làm cho đoạn thơ mang âm điệu ngọt ngào, êm ái. Việc liệt kê một loạt những hình ảnh cùng địa danh của Việt Bắc đã khắc họa thật sâu nỗi niềm thương nhớ của một người chiến sĩ – thi sĩ đối với quê hương thứ hai của mình.
Đoạn thơ trên chính là bản tình ca về lòng chung thủy sắt son, chính là tiếng lòng của nhà thơ, hay cũng chính là của những người Việt Nam trong kháng chiến. Với những câu thơ dạt dào cảm xúc, Tố Hữu đã thể hiện thành công tình cảm của người cán bộ dành cho thiên nhiên, nhân dân Việt Bắc không chỉ là tình cảm công dân xã hội mà còn là sự sâu nặng như tình yêu lứa đôi. Nhờ vậy Việt Bắc đã trở thành thành phần tiêu biểu cho văn học Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp.
Bằng những vần thơ đậm chất dân tộc, nỗi nhớ cùng tình cảm chung thủy sắt son giữa người cán bộ với nhân dân, thiên nhiên Việt Bắc cùng cuộc kháng chiến được khắc họa rõ nét. Thật hiển nhiên, Tố Hữu xứng đáng trở thành ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam.
Tố Hữu vừa là một nhà chính trị tài ba vừa là một nhà thơ tài hoa. Nói về cảm hứng nghệ thuật, Tố Hữu có lần chia sẻ: “Tôi đã viết về đất nước, về người dân mình như viết về người phụ nữ mà mình yêu”. Có lẽ bởi vậy, người ta biết đến nhà thơ nhiều với cái tên gọi “nhà thơ với những bài thơ trữ tình chính trị” sâu sắc. Ông viết về những vấn đề, những sự kiện trọng đại có ý nghĩa lịch sử của thời đại với những hình tượng mang đậm màu sắc sử thi. Đọc đoạn 5 của bài thơ ta hiểu được sâu sắc nỗi nhớ của người ra đi và thiên nhiên, con người Việt Bắc và cuộc sống sinh hoạt kháng chiến
Trong 6 câu thơ đầu nhà thơ đã thể hiện nỗi nhớ sâu đậm của người ra đi với những vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Việt Bắc. Cả 3 cặp câu lục đều bắt đầu bằng một chữ nhớ thật tha thiết. Sắc thái và mức độ được miêu tả qua một so sánh ngọt ngào thấm thía:
“Nhớ gì như nhớ người yêu”
Nhớ người yêu là nỗi nhớ ám ảnh luôn thường trực, không thể nguôi ngoai vơi cạn, nỗi nhớ nhiều khi mãnh liệt đến phi lí như trong cảm nhận của Xuân Diệu “ Uống xong lại khát là tình- Gặp rồi lại nhớ là mình với ta”, đó là nỗi nhớ từng khiến chính Tố Hữu ngạc nhiên: “ Lạ chưa, vẫn ở bên em – Mà anh vẫn nhớ vẫn thèm gặp em”. Qua so sánh Tố Hữu đã bộc lộ sự gắn bó sâu nặng và nỗi nhớ thương của người miền xuôi với mảnh đất và con người Việt Bắc. Từng cảnh vật của Việt Bắc trong mọi không gian và thời gian đã liên tiếp dồn dập trong người ra đi : Việt Bắc khi thơ mộng với ánh trăng bàng bạc thấp thoáng nơi đầu núi, khi ấm áp nhạt nhòa trong ánh nắng chiều lưng nương, lúc lại mơ hồ huyền ảo giữa bản khói cùng sương và nhất là luôn nồng đượm ân tình bởi sự quấn quýt với hình ảnh con người khi sớm khuya bếp lửa người thương đi về từ “nhớ” và cụm từ “nhớ từng” điệp lại nhiều lần trong đoạn thơ cho thấy nỗi nhớ da diết sâu đậm của người đi không chỉ với những cảnh vật cụ thể, thân thuộc mà còn nỗi nhớ bao trùm, toàn vẹn với tất cả những gì thuộc về Việt Bắc. Nhớ những ngày cùng nhau chia sẻ khó khăn gian khổ”
Tuy thiếu thốn, gian khổ nhưng cảnh và người Việt Bắc đẹp và tình nghĩa chan hòa. Hình ảnh tượng trưng: “Chia củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng” kết hợp với cách dùng từ cùng nghĩa “chia, sẻ, cùng” diễn tả được mối tình cảm “chia ngọt sẻ bùi” giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ cách mạng. Biết bao tình nghĩa sâu nặng trong “củ sắn”, “bát cơm”, “chăn sui”… mà người cán bộ cách mạng đã chịu ơn Việt Bắc. Đây là một hình ảnh đậm đà tình giai cấp. Nhớ tình cảm của những người mẹ Việt Bắc:
Hình ảnh chọn lọc “Người mẹ nắng cháy lưng…” gợi người đọc liên tưởng đến sự tần tảo chắt chiu, cần cù lao động của bà mẹ chiến sĩ trong kháng chiến đã đùm bọc, cưu mang chiến sĩ, cán bộ cách mạng. Đó là hình ảnh tiêu biểu cho cái đẹp, cái ân tình trong cuộc sống kháng chiến không thể phai nhòa trong kí ức của người về xuôi.
Người ra đi không chỉ nhớ những hình ảnh của cuộc sống đói nghèo hay gian nan vất vả, tâm trí họ còn in đậm những kỉ niệm đẹp đẽ, thân thương những nếp sống yên bình thơ mộng của cuộc sống núi rừng thời kháng chiến. Nỗi nhớ hướng đến lớp học i tờ- hình ảnh cảm động của phong trào Bình dân học vụ xóa nạn mù chữ ngay những ngày đầu kháng chiến khi được học con chữ Bác Hồ.
Khép lại những thước phim về cuộc sống chiến khu giản dị, nghĩa tình là những âm thanh quen thuộc thân thương:
Đọc hai câu thơ thấy văng vẳng những khúc nhạc đồng quê, mỗi một âm thanh lại gợi mở bức họa bình dị mà thơ mộng. Âm thanh gợi một không gian êm ả, thanh bình. Tiếng giã gạo đêm khuya bình dị mà ghi dấu bao nghĩa tình sâu nặng. Tiếng suối róc rách nơi rừng xa lại gợi cái trong ngần, thơ mộng của cảnh vật. Lời thơ rứt mà những âm thanh ấy cứ ngân vang mãi trong lòng người chia xa Việt Bắc.
Với đoạn thơ cùng với việc sử dụng các biện pháp so sánh, những hình ảnh quen thuộc gần gũi Tố Hữu đã giúp người đọc cảm nhận chân thực được cuộc sống của người dân Việt Bắc và trở thành nỗi nhớ chung của con người Việt Nam. Nỗi nhớ, lòng yêu nước trong “Việt Bắc” mãi là điểm sáng góp phần khẳng định giá trị tác phẩm và tài năng của nhà thơ.
Bàn về thơ Tố Hữu, Xuân Diệu đã từng nhận xét “tình thương mến đặc biệt trong thơ Tố Hữu và sự cảm hòa với người với cảnh… một thứ nhạc xuân tình riêng bàng bạc thấm lấy các câu thơ”. trên phông nền thiên nhiên Việt Bắc bằng làn khói sương hình ảnh con người tháng qua nhưng đem lại hơi ấm và màu sắc rực rỡ cho cảnh thiên nhiên. Nối tiếp khúc ca nỗi nhớ cảnh thiên nhiên Việt Bắc, đoạn thơ thứ năm là những tiếng nhớ tiếng thương hướng tới những đồng bào đã từng gắn bó sắt son. Hình ảnh con người Việt Bắc hiện lên thân thương mộc mạc cần thế kỷ niệm một thời không thể nào quên
Cuộc sống của đồng bào Việt Bắc tuy nghèo khó nhưng đầy ắp nghĩa tình. Trong ký ức của người kháng chiến những tháng năm khó khăn thiếu thốn cho trở nên thật ấm áp bởi sự đầy đủ của tình người tự sự sẻ chia bình dị, không phải là những điều lớn lao vĩ đại như tính mệnh, xương máu, mà chỉ là bát cơm, củ sắn, mảng chăn sơ sài nhưng đó lại là ân tình sâu nặng của con người nơi đây. Câu thơ vừa là một nét tả thực những khó khăn là người lính Việt Bắc gặp phải trên con đường chiến đấu, lại vừa làm nổi bật lên tình quân dân khăng khít. Vật chất thật ít ỏi, đơn sơ mà nghĩa tình thật sâu sắc, thiêng liêng. Tình đồng bào, đồng chí mà ấm áp thân thương như tình cảm gia đình ruột thịt. Giữa cán bộ và đồng bào dường như không còn khoảng cách nào nữa. Các chi tiết nghệ thuật ở đây vừa có ý nghĩa tả thực, vừa có tính khái quát. Tất cả khẳng định sự đồng cam, cộng khổ giữa nhân dân Việt Bắc với những người chiến sĩ cách mạng.
Trong nỗi nhớ tha thiết ý khi hướng về con người Việt Bắc, tiếng lòng của nhà thơ đến chạm tấm hình ảnh thân thuộc mà thiêng liêng – hình ảnh người mẹ tảo tần lam lũ với đức hi sinh cao cả:
Hình ảnh người mẹ chịu thương chịu khó, địu con lên rẫy, cõng trên lưng cả mặt trời nắng cháy, bẻ từng bắp ngô nhọc nhằn, vất vả nuôi giấu cán bộ và dành cho cán bộ những gì đẹp nhất trong cuộc sống của mình. Hai chữ “cháy lưng” nhói lên nỗi xót thương vô hạn của tác giả đối với người mẹ Việt Bắc. Hình ảnh người mẹ ấy bình dị gần gũi, mộc mạc trở đi trở lại trong các sáng tác của Tố Hữu với tiếng gọi “bầm” quen thuộc. Mẹ là nhân vật lịch sử góp phần làm nên những chiến thắng oanh liệt của dân tộc nên không chỉ Tố Hữu là thơ ca Việt Nam đã nhiều lần thưởng thức cái bóng hình ấy:
Advertisement
Sau hình ảnh người mẹ trong dòng chảy ký ức của thi nhân dần vọng về những âm thanh quen thuộc của nhịp sống Việt Bắc:
Bức tranh cuộc sống Việt Bắc rộn rã âm thanh. Cán bộ cách mạng đến vùng cao đâu chỉ gây dựng kháng chiến mà còn gieo chữ xuống bả, đem ánh sáng văn hóa xuống làng. Các lớp bình dân học vụ, xóa mù chữ được mở ra khắp các bản làng. Cuộc sống nơi chiến khu không chỉ có niềm hạnh phúc chinh phục chân trời tri thức mà còn đầy ắp niềm vui trong sinh hoạt tập thể.
Tinh thần trường kì kháng chiến nhất định thắng lợi, phong trào “Tiếng hát át tiếng bom” thực sự thấm sâu vào nhận thức của mỗi người.
Đọc hai câu thơ mà ta thấy văng vẳng đâu đây những khúc nhạc đồng quê, mỗi một âm thanh lại gợi mở bức họa bình dị mà thơ mộng. Tiếng mõ rừng chiều giục đàn trâu trở về trong niềm vui háo hức của đám trẻ mục đồng sau một ngày lao động hăng say. Âm thanh gợi một không gian êm ả, thanh bình. Tiếng giã gạo đêm khuya bình dị mà ghi dấu bao nghĩa tình sâu nặng. Tiếng suối róc rách nơ rừng xa lại gợi cái trong ngần, thơ mộng của cảnh vật. Lời thơ rứt mà những âm thanh ấy cứ ngân vang mãi trong lòng người chia xa Việt Bắc. Tất cả tạo nên một bản nhạc riêng khó lẫn của núi rừng Việt Bắc, là âm thanh tiêu biểu cho Việt Bắc, một bài ca trong trẻo, tươi vui, mà không một cuộc sống khổ ải nào có thể dập tắt được.
Khúc hát về nỗi nhớ con người Việt Bắc nói riêng và cả bài thơ nói chung đã ru vỗ hồn người bằng giai điệu ngọt ngào tha thiết. Đoạn thơ đã góp một phần không nhỏ vào thành công của tác phẩm nói riêng và văn thơ cách mạng nói chung, để Việt Bắc trở thành một bông hoa mãi tươi xanh trong dòng chảy của thời gian.
Nhà văn Macxen Prut cho rằng: Thế giới được tạo lập không phải một lần mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo thì lại một lần thế giới được tạo lập. Một người nghệ sĩ độc đáo là một người có phẩm chất độc đáo, tài năng độc đáo. Mỗi lần người nghệ sĩ ấy xuất hiện là họ lại mang đến cho chúng một thế giới riêng, một cách cảm nhận thế giới và con người. Là nhà thơ của lí tưởng và cộng sản, Tố Hữu xuất hiện giữa làng thơ Việt Nam với phong cách nghệ thuật độc đáo. Thơ của ông mang tính trữ tình, chính trị, đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, thấm nhuần tính dân tộc. Tiêu biểu cho giọng thơ rất riêng và độc đáo của Tố Hữu phải kể đến bài thơ Việt Bắc – bài thơ kết tinh tình cảm của con người Việt Nam mà bao trùm là tình yêu nước. Bài thơ được triển khai theo lối kết cấu đối đáp giữa kẻ ở người đi. Trong những lời đối đáp của người đi, đã có biết bao nhiêu tình cảm nhớ nhung, da diết; và một trong những nỗi nhớ ấy phải có nỗi nhớ như nhớ người yêu:
Việt Bắc là khu căn cứ của cách mạng Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi. Tháng 7/ 1954, hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được kí kết. Hòa bình lập lại, miền Bắc được giải phóng và đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tháng 10/ 1954, Đảng và Chính phủ rời Việt Bắc về Hà Nội, những người kháng chiến (trong đó có Tố Hữu) từ căn cứ miền núi về miền xuôi chia tay Việt Bắc, chia tay khu căn cứ Cách mạng trong kháng chiến. Nhân sự kiện có tính lịch sử này Tố Hữu sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Bài thơ “Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp.
Bài thơ Việt Bắc triển khai theo lối kết cấu đối đáp giữa kẻ, người đi thật tự nhiên, khéo léo. Những câu hỏi gợi nhắc của người ở lại đã khơi nguồn biết bao kỉ niệm ùa về. Kỉ niệm kết nối kỉ niệm, kí ức gọi kí ức. Tất cả bỗng thức dậy và chồi nảy trong mạch cảm xúc dào dạt tưởng chừng không bao giờ vơi cạn. Kết nối những kỉ niệm, kí ức ấy chính là sợi nhớ, sợi thương. Chỉ riêng đoạn thơ 8 câu này, từ “nhớ” đã điệp lại bốn lần trong lòng người đi, nỗi nhớ này chưa qua thì nỗi nhớ khác đã ùa về như lớp sóng miên man không dịu. Mỗi lần niềm nhớ rung lên là bao kỉ niệm ùa về, bao nghĩa tình được bồi đắp. Có thể nói nhớ thương đã trở thành điệp khúc, lực hấp dẫn để hút về tất cả kí ức hoài niệm dấu yêu.
(Chế Lan Viên, Tiếng hát con tàu)
Chia xa mảnh đất mình từng gắn bó, ai mà chẳng nhớ chẳng thương. Thế nhưng hiếm có thi sĩ nào mang trong tim nỗi nhớ tha thiết, khắc khoải, cháy bỏng khi dã từ chiến khu Việt Bắc: “Nhớ gì như nhớ người yêu”. Một dòng thơ mà hai lần chữ “nhớ” được láy lại. Nỗi nhớ cứ lơ lửng ám ảnh mãi tâm trí người đi đến mức không thể kìm nén được. Lời thơ buông ra với ngữ điệu hết sức đặc biệt, nửa như nghi vấn, nửa như cảm thán tạo ấn tượng, ám ảnh người đọc. “Như nhớ người yêu” là hình ảnh so sánh, ví von thật lãng mạn, tình tứ. Nỗi nhớ Việt Bắc được cảm nhận như nỗi nhớ thương người yêu. Có khi ngẩn ngơ, ngơ ngẩn; có khi bồn chồn, bối rối, bổi hổi, bồi hồi. Khi da diết khắc khoải, khi lại đau đáu thăm thẳm. Nỗi nhớ khi chia xa Việt Bắc phải chăng hàm chứa mọi cung bậc cảm xúc ấy. Một nỗi nhớ nồng nàn, đằm thắm, tha thiết. Với hình ảnh so sánh này, Tố Hữu thực sự là một tình nhân đắm đuối trước Việt Bắc, trước nhân dân đất nước mình. Cùng với những câu thơ “Mình về mình có nhớ ta – Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng, Áo chàm đưa buổi phân lí – Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”, tứ thơ “Nhớ gì như nhớ người yêu” đã đưa thi phẩm Việt Bắc trở thành khúc tình ca bậc nhất trong thơ ca Cách mạng. Quả không sai khi Xuân Diệu nhận xét: Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ thơ rất đỗi trữ tình. Khám phá câu thơ “Nhớ gì như nhớ người yêu”, ta bỗng vỡ lẽ hiểu ra rằng lối kết cấu đối đáp cùng cách xưng hô “ta – mình” trong Việt Bắc không đơn thuần là sáng tạo hình thức, là câu chuyện ngôn ngữ. Tình cảm giữa cán bộ Cách mạng và đồng bào chiến khu thiết tha, mặn nồng như tình đôi lứa khiến nhà thơ tìm đến cách cấu tứ xưng hô như vậy.
Chảy về trong nỗi nhớ niềm thương là cảnh sắc Việt Bắc thơ mộng hiền hòa:
Những câu thơ như một bức họa gợi cảm về cảnh rừng Việt Bắc thơ mộng, hữu tình. Có đêm trăng huyền ảo, mảnh trăng lấp ló nơi đầu núi, có những chiều tỏa nắng trên nương và hình ảnh những nếp nhà, bản làng thấp thoáng trong sương khói bồng bềnh. Không miêu tả chi tiết, Tố Hữu chỉ chấm phá, khơi gợi. Tuy nhiên, với những người trong cuộc, chỉ chừng ấy thôi cũng đủ bồi hồi, xao xuyến biết bao. Hòa cùng vẻ đẹp bình dị và thơ mộng của thiên nhiên Việt Bắc là hình ảnh con người Việt Bắc rất đỗi thân thương: Sớm khuya bếp lửa người thương đi về. Hình ảnh thơ gợi tả tinh tế sự tần tảo, đảm đang, chịu thương, chịu khó của những cô gái nuôi quân nơi chiến khu Việt Bắc. Không quản khó nhọc gian nan, những thiếu nữ Việt Bắc vẫn sớm hôm cần mẫn nuôi dấu cán bộ. Hình ảnh bếp lửa gợi những buổi đoàn tụ ấm cùng và nghĩa tình quân dân nồng đượm. Tình quân dân, cách mạng mà mang không khí ấm áp, yêu thương như tình cảm gia đình. Cách nói “người thương” khéo léo, nhiều sức gợi, chứa chan tình cảm dịu dàng mà nồng nàn, yêu thương. Hẳn trong trái tim nhà thơ đã để thương một người con gái Việt Bắc biết hi sinh vì Cách mạng.
Kết thúc khổ thơ, tình cảm lại toả ra tràn ngập cả núi rừng Việt Bắc. Những kỷ niệm chung và riêng đan xen nhau, lần lượt hiện ra trong tưởng tượng của người đi:
Những đồi tre bát ngát, những dòng suối mát trong, con sông hiền hòa, tất cả cứ in sâu trong nỗi nhớ người về. Nhắc đến dòng sông, đồi núi, rừng nứa, bờ tre là dưng dưng bao kỉ niệm, đong đầy bao yêu thương. Những cái tên: Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê có lẽ không đơn thuần chỉ là những địa danh mà còn ẩn dấu bao kỉ niệm cảm xúc. Những gắn bó gian khổ, ngọt bùi đã trở thành những kỷ niệm da diết trong trái tim người đi khó có thể quên được. Biết bao những xúc động bồi hồi cùng những ngọt ngào dưng dưng dồn chứa trong mấy chữ “đắng cay, ngọt bùi” cùng dấu chấm lửng cuối dòng thơ. Người đi muốn nhắn gửi với người ở lại rằng người về xuôi sẽ không quên bất cứ một kỉ niệm, một kí ức nào.
Có thể thấy, đoạn thơ đã thể hiện rõ nỗi nhớ da diết của người đi Việt Bắc, đó là tấm lòng chân tình của cán bộ kháng chiến với Việt Bắc bằng thể thơ lục bát nhịp nhàng, uyển chuyển; hình ảnh trong sáng giản dị, gợi cảm, đoạn thơ đã tạo nên sức hấp dẫn đối với độc giả. Đọc đoạn thơ, ta thấy bịn rịn một tấm lòng nhớ thương da diết vô hạn.
Tố Hữu là một trong những nhà thơ của lí tưởng và cộng sản, ông xuất hiện giữa làng thơ Việt Nam với phong cách nghệ thuật độc đáo. Thơ của ông mang đậm chất trữ tình, lãng mạn, nhưng vẫn bao gồm đó là hơi thở của dân tộc, của cách mạng. Tiêu biểu cho giọng thơ rất riêng và độc đáo của Tố Hữu phải nhắc đến bài thơ Việt Bắc – bài thơ là tình cảm, là tinh thần yêu nước của con người Việt Nam. Bài thơ được triển khai theo lối kết cấu đối đáp giữa kẻ ở người đi. Trong những lời đối đáp của người đi, đã có biết bao nhiêu tình cảm nhớ nhung, da diết; và một trong những nỗi nhớ ấy là:
Việt Bắc là tác phẩm nằm trong thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ Việt Bắc được triển khai theo lối kết cấu đối đáp giữa kẻ ở, người đi vô cùng tự nhiên, khéo léo. Những câu hỏi gợi nhắc của người ở lại đã khơi nguồn biết bao kỉ niệm ùa về. Dường như mọi thứ bỗng thức dậy và trôi trong mạch cảm xúc dào dạt tưởng chừng không bao giờ cạn. Chỉ riêng đoạn thơ 8 câu này, Tố Hữu đã sử dụng từ “nhớ” tới bốn lần trong lòng người đi, nỗi nhớ này chưa qua thì nỗi nhớ khác đã ùa về như lớp sóng miên man không dịu. Mỗi lần niềm nhớ rung lên là bao kỉ niệm ùa về, bao nghĩa tình được bồi đắp. Có thể nói nhớ thương đã trở thành điệp khúc, lực hấp dẫn để hút về tất cả kí ức hoài niệm dấu yêu.
Đúng vậy, hiếm có thi sĩ nào mang trong tim nỗi nhớ tha thiết, khắc khoải, cháy bỏng khi dã từ chiến khu Việt Bắc: “Nhớ gì như nhớ người yêu”. Một dòng thơ mà hai lần chữ “nhớ” được lặp lại. Nỗi nhớ cứ lơ lửng ám ảnh mãi tâm trí người đi đến mức không thể kìm nén được. Lời thơ buông ra với ngữ điệu hết sức đặc biệt, nửa như nghi vấn, nửa như cảm thán tạo ấn tượng, ám ảnh người đọc. “Như nhớ người yêu” là hình ảnh so sánh, ví von thật lãng mạn, tình tứ. Nỗi nhớ Việt Bắc được cảm nhận như nỗi nhớ thương người yêu. Có khi ngẩn ngơ, ngơ ngẩn; có khi bồn chồn, bối rối, bổi hổi, bồi hồi. Khi da diết khắc khoải, khi lại đau đáu thăm thẳm. Nỗi nhớ khi chia xa Việt Bắc phải chăng hàm chứa mọi cung bậc cảm xúc ấy.
Ngoài ra, chảy về trong nỗi nhớ niềm thương là cảnh sắc Việt Bắc thơ mộng hiền hòa:
Những câu thơ như một bức họa gợi cảm về cảnh rừng Việt Bắc thơ mộng, hữu tình. Có đêm trăng huyền ảo, mảnh trăng lấp ló nơi đầu núi, có những chiều tỏa nắng trên nương và hình ảnh những nếp nhà, bản làng thấp thoáng trong sương khói bồng bềnh. Không miêu tả chi tiết, Tố Hữu chỉ chấm phá, khơi gợi. Tuy nhiên, với những người trong cuộc, chỉ chừng ấy thôi cũng đủ bồi hồi, xao xuyến biết bao. Hòa cùng vẻ đẹp bình dị và thơ mộng của thiên nhiên Việt Bắc là hình ảnh con người Việt Bắc rất đỗi thân thương:
“Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.”
Hình ảnh thơ gợi tả tinh tế sự tần tảo, đảm đang, chịu thương, chịu khó của những cô gái nuôi quân nơi chiến khu Việt Bắc. Không quản khó nhọc gian nan, những người phụ nữ Việt Bắc vẫn sớm hôm cần mẫn nuôi dấu cán bộ. Hình ảnh bếp lửa gợi những buổi đoàn tụ ấm cùng và nghĩa tình quân dân nồng đượm. Tình quân dân, cách mạng mà mang không khí ấm áp, yêu thương như tình cảm gia đình. Hẳn trong trái tim nhà thơ đã để thương một người con gái Việt Bắc biết hi sinh vì Cách mạng.
Nhưng đó chẳng phải là kết thúc nỗi nhớ, tình cảm lại tỏa ra tràn ngập cả núi rừng Việt Bắc. Những kỷ niệm chung và riêng đan xen nhau, lần lượt hiện ra trong tưởng tượng của người đi:
Những đồi tre bát ngát, những dòng suối mát trong, con sông hiền hòa, tất cả cứ in sâu trong nỗi nhớ người về. Nhắc đến dòng sông, đồi núi, rừng nứa, bờ tre là dưng dưng bao kỉ niệm, đong đầy bao yêu thương. Những cái tên: Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê có lẽ không đơn thuần chỉ là những địa danh mà còn ẩn dấu bao kỉ niệm cảm xúc. Những gắn bó gian khổ, ngọt bùi đã trở thành những kỷ niệm da diết trong trái tim người đi khó có thể quên được. Biết bao những xúc động bồi hồi cùng những ngọt ngào dưng dưng dồn chứa trong mấy chữ “đắng cay, ngọt bùi” cùng dấu chấm lửng cuối dòng thơ. Người đi muốn nhắn gửi với người ở lại rằng người về xuôi sẽ không quên bất cứ một kỉ niệm, một kí ức nào.
Có thể thấy, đoạn thơ ngắn chỉ với 8 câu thơ đã thể hiện rõ nỗi nhớ da diết của người đi Việt Bắc, đó là tấm lòng chân tình của cán bộ kháng chiến với Việt Bắc bằng thể thơ lục bát nhịp nhàng, uyển chuyển; hình ảnh trong sáng giản dị, gợi cảm, đoạn thơ đã tạo nên sức hấp dẫn đối với độc giả. Đọc đoạn thơ, ta thấy bịn rịn một tấm lòng nhớ thương da diết vô hạn.
Văn Mẫu Lớp 12: Phân Tích Khổ 5, 6 Và 7 Bài Thơ Sóng Dàn Ý &Amp; 14 Bài Văn Mẫu Lớp 12
TOP 14 bài Phân tích khổ 5, 6, 7 bài Sóng
Dàn ý phân tích khổ 5, 6 và 7 bài thơ Sóng (4 Mẫu)
Phân tích khổ 5, 6, 7 bài Sóng học sinh giỏi (2 Mẫu)
Phân tích khổ 5 6 7 bài Sóng (5 Mẫu)
Phân tích Sóng khổ 5 6 7 (5 Mẫu)
Phân tích khổ 5 6 7 bài Sóng (2 Mẫu)
Dàn ý phân tích khổ 5, 6 và 7 bài thơ Sóng Dàn ý chi tiết số 1I. Mở bài
– Bài thơ “Sóng” được Xuân Quỳnh viết vào năm 1967. Tác phẩm đã bộc lộ nguồn xúc cảm da diết, đậm sâu trong tình yêu của nhân vật trữ tình, điều đó được thể hiện rõ nhất của khổ 5, 6, 7 của bài thơ.
II. Thân bài
– Nỗi nhớ người con gái đã vượt cả không gian rộng lớn, biển kia có sâu rộng cũng không đo được bằng nỗi nhớ nơi em.
– Từng nỗi nhớ là từng cơn sóng lòng nơi sâu thẳm trái tim “em”.
– Nỗi nhớ luôn thường trực trong tâm trí, vượt cả sự chảy trôi của thời gian.
– Khoảng cách có xa xôi thì lòng chung thủy càng sâu sắc, nỗi nhớ nơi “em” càng lớn.
– Lời nguyện thề luôn hướng về anh giữ trọn vẹn tình yêu.
– Tình yêu là sức mạnh giúp “em – anh” vượt qua những giông tố, trắc trở cuộc đời.
III. Kết bài
– Tiếng thơ Xuân Quỳnh cũng chính là nỗi lòng của bao người đang yêu và được yêu, đặc biệt là những thanh niên trẻ tuổi giàu khát vọng yêu.
Dàn ý chi tiết số 2I. Mở bài
Sóng của Xuân Quỳnh là bài thơ hay về đề tài tình yêu đôi lứa, nỗi nhớ da diết và chung thủy một lòng trong tình yêu thể hiện rất đậm nét trong khổ 5 6 7 của bài thơ. Khổ 5 6 7 cũng là đoạn hay và đặc sắc nhất trong bài thơ Sóng.
II. Thân bài
*Nỗi nhớ nhung da diết trong tình yêu
Trong khổ 5 tập trung vào nỗi nhớ trong tình yêu của chính tác giả. Sóng dù “dưới lòng sâu” hay con sóng “trên mặt nước” đều có chung một nỗi nhớ đó là “nhớ bờ”.
Sóng hiện thân con gái khi yêu vô cùng mãnh liệt, nhớ nhung người yêu tựa như những con sóng liên tiếp đang xô vào bờ.
Người con gái phải yêu thương, nhớ nhung nhiều lắm mới thể hiện cảm xúc “Ôi con sóng nhớ bờ”.
Nỗi nhớ đó thường trực cả ngày lẫn đêm, xâm chiếm tâm trí người con gái đến cả khi chìm vào giấc mơ.
*Sự thủy chung trong tình yêu
Con sóng dù có xuôi về phương Bắc hay phương Nam cách xa, trắc trở về địa lý nhưng có điểm chung đều hướng vào bờ.
Hình ảnh sóng vỗ vào bờ tựa như người con gái vượt qua nhiều khó khăn, trắc trở để hướng đến tình yêu, một lòng thủy chung sắc son.
Thủy chung là đức tính quý báu của người con gái Việt Nam và nhà thơ Xuân Quỳnh nguyện một lòng chung thủy suốt đời.
Chính sự thủy chung sẽ giúp người con gái vượt qua nhiều khó khăn, thử thách để đến với tình yêu đích thực.
*Tình yêu sẽ chiến thắng mọi thử thách
– Khổ 7 như một lời khẳng định tình yêu đích thực có thể vượt qua mọi khó khăn, rào cản.
Đại dương mênh mông có biết bao con sóng nhưng chúng đều sẽ hướng vào bờ.
Sức mạnh, niềm tin của tình yêu sẽ giúp con người hạnh phúc.
Tác giả ca ngợi tình yêu đẹp và sức mạnh vượt qua mọi thử thách.
Con người sẽ hạnh phúc trong tình yêu như những con sóng ngoài đại dương chắc chắn sẽ vào bờ.
– Cả 3 khổ thơ tác giả sử dụng con sóng là hình ảnh ẩn dụ của người con gái trong tình yêu. Kết hợp các biện pháp tu từ, sự đối lập tạo nên thành công của bài thơ Sóng đặc biệt trong khổ 5 6 7.
III. Kết bài
Sóng của nhà thơ Xuân Quỳnh luôn là bài thơ hay về tình yêu được rất nhiều thế hệ trẻ yêu thích.
Dàn ý chi tiết số 3I. Mở bài: phân tích bài thơ sóng khổ 5, 6, 7
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm.
Dẫn dắt vào vấn đề và phân tích bài thơ sóng của Xuân Quỳnh khổ 5 6 7
Vi dụ: Bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh được sáng tác vào năm 1967. Bài thơ đã bộc lộ xúc cảm da diết mà ầm ĩ đậm sâu trong tình yêu của tác giả, tình yêu đó được thể hiện nổi bậc nhất ở khổ 5, 6, 7 của bài thơ.
II. Thân bài
Phân tích khổ 5: Nỗi nhớ nhung da diết trong tình yêu
Trong khổ 5 tập trung vào nỗi nhớ trong tình yêu của chính tác giả. Sóng dù “dưới lòng sâu” hay con sóng “trên mặt nước” đều có chung một nỗi nhớ đó là “nhớ bờ”.
Sóng hiện thân con gái khi yêu vô cùng mãnh liệt, nhớ nhung người yêu tựa như những con sóng liên tiếp đang xô vào bờ.
Người con gái phải yêu thương, nhớ nhung nhiều lắm mới thể hiện cảm xúc “Ôi con sóng nhớ bờ”.
Nỗi nhớ đó thường trực cả ngày lẫn đêm, xâm chiếm tâm trí người con gái đến cả khi chìm vào giấc mơ.
*Phân tích khổ 6: Khổ thơ nói về sự thủy chung trong tình yêu
Con sóng dù có xuôi về phương Bắc hay phương Nam cách xa, trắc trở về địa lý nhưng có điểm chung đều hướng vào bờ.
Hình ảnh sóng vỗ vào bờ tựa như người con gái vượt qua nhiều khó khăn, trắc trở để hướng đến tình yêu, một lòng thủy chung sắc son.
Thủy chung là đức tính quý báu của người con gái Việt Nam và nhà thơ Xuân Quỳnh nguyện một lòng chung thủy suốt đời.
Chính sự thủy chung sẽ giúp người con gái vượt qua nhiều khó khăn, thử thách để đến với tình yêu đích thực.
*Phân tích khổ thơ 7: Tình yêu sẽ chiến thắng mọi thử thách của cuộc sóng
– Khổ 7 như một lời khẳng định tình yêu đích thực có thể vượt qua mọi khó khăn, rào cản.
Đại dương mênh mông có biết bao con sóng nhưng chúng đều sẽ hướng vào bờ.
Sức mạnh, niềm tin của tình yêu sẽ giúp con người hạnh phúc.
Tác giả ca ngợi tình yêu đẹp và sức mạnh vượt qua mọi thử thách.
Con người sẽ hạnh phúc trong tình yêu như những con sóng ngoài đại dương chắc chắn sẽ vào bờ.
III. Kết bài
Tóm gọn những điều mà tác giả muốn bày tỏ qua khổ thơ 5 6 7 bài Sóng
Gợi ý: Lời thơ Xuân Quỳnh đã nói hộ nỗi lòng của bao người đang yêu và được yêu, đặc biệt là những người trẻ tuổi giàu khát vọng và niềm tin vào tình yêu.
Dàn ý chi tiết mẫu 4I. Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Xuân Quỳnh, bài thơ Sóng: Xuân Quỳnh là nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nổi bật trong thơ Xuân Quỳnh là chùm thơ viết về tình yêu. Trong đó bạn đọc yêu thơ chị chắc chắn sẽ biết đến bài thơ “Sóng”.
– Dẫn dắt giới thiệu nội dung cần phân tích: Khi nói về nét truyền thống của người con gái trong tình yêu, khổ thơ năm, sáu và bảy đã làm tròn nhiệm vụ của mình.
II. Thân bài
1. Khổ 5: Nỗi nhớ trong tình yêu
– Nỗi nhớ là tình cảm chủ đạo, luôn thường trực trong trái tim những người đang yêu.
Nỗi nhớ bao trùm cả không gian, thời gian: “dưới lòng sâu… trên mặt nước…”, “ngày đêm không ngủ được”.
Tồn tại trong ý thức và đi vào cả tiềm thức: “Lòng em nhớ đến anh/Cả trong mơ còn thức”.
Nghệ thuật nhân hóa, hóa thân vào sóng để “em” tự bộc lộ nỗi nhớ da diết, cháy bỏng của mình.
2. Khổ 6: Sự thủy chung trong tình yêu
– Lòng thủy chung, son sắt của người con gái trong tình yêu:
“Dẫu xuôi về phương Bắc/Dẫu ngược về phương Nam”: ngược với cách nói thông thương.
“Nơi nào em cũng nghĩ/Hướng về anh – một phương”: Khẳng định lòng thủy chung son sắc trong tình yêu.
3. Khổ 7: Niềm tin sâu sắc trong tình yêu
– Khẳng định quy luật vĩnh cửu của thiên nhiên “Con nào chẳng tới bờ/Dù muôn vời cách trở”. Ở ngoài đại dương xa xôi đó, có trăm ngàn con sóng vỗ. Nhưng cuối cùng, con sóng nào cũng tìm được đến bến bờ của mình.
– Cũng giống như “em” và “anh, dù cuộc đời phải trải qua muôn ngàn sóng gió, có đôi lúc phải cách xa nhau. Thì đến cuối cùng, “em” và “anh” vẫn sẽ gặp lại nhau. Và tình cảm của đôi ta sẽ mãi mãi tồn tại.
III. Kết bài
Khẳng định lại giá trị của khổ thơ 5, 6 và 7: Đọc “Sóng” của Xuân Quỳnh, người đọc dường như thêm trân trọng tình yêu. Và dù người phụ nữ của Xuân Quỳnh trong tình yêu có mạnh mẽ đến đâu, họ vẫn giữ gìn được những vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ xưa.
Phân tích khổ 5, 6, 7 bài Sóng học sinh giỏi Bài làm mẫu 1Từ xưa đến nay, tình yêu luôn là nguồn cảm hứng của biết bao thi nhân. Tuy nhiên mỗi nhà thơ lại có một cách thể hiện khác nhau. Nó có thể đậm chất triết lý như trong thơ Tagore hay tha thiết, cháy bỏng như thơ của Xuân Diệu. Với bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh là một tình yêu đầy những âu lo, trăn trở và khát khao hạnh phúc đời thường của người phụ nữ…
Nếu như tác phẩm tự sự thường phản ánh tư tưởng, tình cảm của tác giả thông qua việc tái hiện khách quan hiện thực đời sống thông qua tình huống truyện, sự kiện, nhân vật, chi tiết… thì thơ ca đi vào phản ánh thế giới tâm hồn con người trước rung cảm tinh tế sâu sắc, trước cuộc sống muôn màu. Vì thế Lê Quý Đôn nói: “thơ ca khởi phát từ lòng người”. Có thể nói, bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh đã thể hiện rõ nét điều đó. Tác phẩm này được viết vào năm 1967, khi tác giả có chuyến đi thực tế tại biển Diêm Điền. Đứng trước những con sóng nối tiếp, vô tận của biển cả, Xuân Quỳnh đã nhận thấy sự đồng điệu giữa những cung bậc, trạng thái của sóng với cung bậc tình cảm, khát vọng trong tâm hồn của người phụ nữ khi yêu. Bài thơ “Sóng” được in trong tập “Hoa dọc chiến hào” – tập thơ tiêu biểu của Xuân Quỳnh trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ. Trong tác phẩm này, nhà thơ đã sử dụng hai hình tượng “sóng” và “em” có khi tách biệt, có khi thống nhất, có khi lại hòa vào làm một để diễn tả vẻ đẹp trong tình yêu của tâm hồn người phụ nữ. Đồng thời, Xuân Quỳnh đã đem đến một quan niệm mới mẻ, nhân văn về tình yêu, về con người trong những năm tháng chống Mỹ đầy khốc liệt.
Khổ thơ thứ năm là khổ thơ có số lượng câu thơ nhiều nhất trong “Sóng”. Sáu câu thơ đứng giữa thi phẩm như một đợt sóng lòng cồn lên cao nhất từ tâm điểm của tác phẩm trong đó bốn câu thơ đầu là nỗi nhớ bờ âm ỉ, tha thiết của con sóng:
Tác giả đã sử dụng điệp từ “con sóng” lặp lại liên tiếp nhiều lần. Qua đó không chỉ tạo một giọng thơ sôi nổi phù hợp với mạch cảm xúc mà còn nhấn mạnh hình tượng con sóng đang cuộn chảy, trào dâng trong nỗi nhớ. Dưới ngòi bút tinh tế của nữ thi sĩ, những con sóng ấy trở nên có hồn hơn, chất chứa những suy tư, tình cảm như một con người thực sự. Đó là nỗi nhớ da diết, nỗi nhớ cồn cào về bến đỗ thân thương “bờ”. Bằng biện pháp nhân hóa đặc sắc với động từ “nhớ”, người đọc dường như có thể cảm nhận được một nỗi niềm đau đáu ẩn hiện trong hình hài con sóng biển. Đặc biệt hơn nữa, Xuân Quỳnh còn sử dụng cặp từ đối lập giàu sức gợi “trên mặt nước” – “dưới lòng sâu”, “ngày” – “đêm” vừa tạo nên cấu trúc song hành, đối xứng vừa khiến cho ngôn ngữ thơ cân xứng hài hòa, nhạc điệu thơ nhịp nhàng nhưng trên hết là để nhấn mạnh nỗi “nhớ bờ” khôn nguôi của sóng. Dù ở bất cứ nơi đâu, dù đang ngủ yên dưới lòng biển sâu thẳm hay vận động trên đại dương bao la thì con sóng vẫn luôn “nhớ bờ”, vẫn luôn hướng về nơi phương xa, về nơi dừng chân bình yên của mình. Nỗi nhớ ấy luôn thường trực trong hình tượng con sóng và nó dường như bao trùm lấy cả không gian mênh mông của biển cả, kéo dài miên man không dứt theo thời gian. Dù trong ngày êm ả hay đêm vắng lặng, con sóng vẫn thao thức “không ngủ được”. Nữ thi sĩ tiếp tục sử dụng biện pháp nhân hóa đầy tinh tế, giàu tính biểu cảm. Nỗi “nhớ bờ” ấy phải cồn cào, da diết như thế nào mới có thể khiến con sóng “không ngủ được”? Không còn là thứ vô tri, vô giác nữa mà con sóng ấy từ lâu đã mang trong mình cả một tâm hồn, một tâm hồn biết “nhớ”, biết “không ngủ được” vì nỗi trăn trở. Đọc những câu thơ này, người ta không chỉ cảm nhận được những âm điệu sôi nổi, mãnh liệt của sóng mà còn hình dung được những con sóng đang trào dâng giữa biển cả với nỗi nhớ bao trùm cả không gian, kéo dài theo thời gian.
Từ nỗi nhớ của sóng, Xuân Quỳnh đã bày tỏ nỗi nhớ của “em” một cách đầy tự tin, trực tiếp:
Nếu người phụ nữ trước khi chỉ dám bày tỏ nỗi nhớ một cách gián tiếp thì người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh đã phá vỡ rào cản mà chủ động, trực tiếp khẳng định tình yêu của mình. Ở đây Xuân Quỳnh đã dùng từ “lòng” thật chính xác để diễn tả tình cảm của người phụ nữ với tình yêu. Lòng là chốn sâu kín nhất của tâm hồn, lòng là kết tinh của tình cảm được chưng cất trong một thời gian dài qua biết bao thử thách. Vì vậy mà tấm lòng ấy không chút hời hợt mà là gan, là ruột của người phụ nữ. “Lòng em nhớ đến anh” là câu nói khẳng định giản dị, chân thành mà nồng nàn, da diết và đầy táo bạo. Điều này chứng tỏ nỗi nhớ và tình yêu của người phụ nữ phải rất cháy bỏng, tha thiết và mãnh liệt mới có thể có đủ can đảm để khẳng định được tấm lòng của mình một cách chủ động như vậy. Đây cũng chính là vẻ đẹp của tình yêu tự do, hiện đại. Để rồi nỗi nhớ ấy không chỉ còn là ở cảm xúc hay ý thức mà nó đã trở thành nỗi nhớ của tiềm thức: “Cả trong mơ còn thức”. Nếu chỉ hiểu theo nhận thức của lí trí thông thường thì khi mơ là đang ngủ mà trạng thái ngủ là hoàn toàn đối lập với trạng thái thức. Cho nên “cả trong mơ còn thức” là điều rất vô lý, trái với nhận thức thông thường. Tuy vậy nhưng câu thơ vẫn được ngợi ca và đón nhận. Tại sao lại như vậy? Có lẽ là bởi nó được lý giải bởi quy luật của tình yêu. Trong tình yêu, mọi thứ vô lý đều có thể trở thành hợp lý và ở đây cũng vậy. Có lẽ chỉ người đã và đang sống trong nỗi nhớ của tình yêu mới có thể cảm nhận trọn vẹn những cung bậc cảm xúc ấy. Có thể nói, Xuân Quỳnh đã đem đến cho người đọc những cảm nhận sâu sắc mà mới mẻ về tình yêu trong tâm hồn người phụ nữ. Đây cũng là trạng thái tình cảm tiêu biểu cho những ai đã, đang và sẽ yêu. Và đằng sau nỗi nhớ “anh” tha thiết ấy là một lời khẳng định đầy mạnh mẽ cho một tình yêu sâu sắc và cao đẹp.
Ở khổ thơ thứ sáu, ta lại bắt gặp một vẻ đẹp của người phụ nữ khi yêu: đó là lòng thủy chung, son sắt. Người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh không chỉ mạnh mẽ vươn ra biển lớn tìm tình yêu mới trọn vẹn hơn, đẹp đẽ hơn mà còn là một người con gái thủy chung với tình cảm của mình, tuy sẵn sàng bỏ lại mọi thứ nhưng khi tìm được bến bờ hạnh phúc lại một lòng một dạ với người mình yêu:
Trước hết ở hai câu thơ đầu, chúng ta thấy cách diễn đạt của Xuân Quỳnh thật thú vị:
Trong cách nói quen thuộc của người Việt Nam, người ta thường chỉ nói “xuôi Nam ngược Bắc”. Thế nhưng Xuân Quỳnh lại viết “xuôi Bắc ngược Nam”. Tại sao tác giả không viết theo quy luật thông thường mà bất ngờ đảo ngược như vậy? Lúc ấy, phương Nam là tiền tuyến, miền Bắc là hậu phương mà ta thường nói xuôi về tiến tuyến, ngược về hậu phương. Điều này khẳng định rõ hơn những gian nan, tất tả, ngược xuôi cách trở éo le mà “em” phải đối diện. Phải chăng, nhà thơ còn muốn khẳng định cho dù vạn vật luôn đổi thay, cuộc đời luôn điên đảo, lòng người dễ thay đen đổi trắng, dễ biến ngược thành xuôi, thì người phụ nữ vẫn luôn thủy chung son sắt trong tình yêu. Nhà thơ còn sử dụng nghệ thuật điệp cấu trúc “dẫu…” nhằm khẳng định sự mạnh mẽ, táo bạo và chân thành của người phụ nữ khi yêu. Dù có phải trải qua tất cả những thay đổi thăng trầm, người phụ nữ vẫn luôn thủy chung với tình yêu và hạnh phúc với sự lựa chọn của mình. Dường như Xuân Quỳnh muốn phủ nhận tất cả những khó khăn, trái ngang để yêu – một tình yêu đích thực mà người phụ nữ khao khát có được.
Khép lại trong lòng người đọc là hai câu thơ:
Lời thơ đọc lên thấy tiếng lòng da diết của người phụ nữ khi yêu. Ta không nghe thấy tiếng lòng của sóng chỉ nghe thấy tiếng lòng của em. Xuân Quỳnh đã khẳng định một cách chân thành, mạnh mẽ: Dù ra Bắc hay vào Nam, dù đi ngược hay về xuôi, dù lên rừng hay xuống biển, dù ở bất cứ nơi đâu, dù có đi tới chân trời góc bể, dù em có phải cách xa đến chừng nào thì em vẫn luôn nghĩ về anh, luôn hướng về anh. Và dù trời đất vũ trụ có bốn phương, tám hướng thì trái tim em chỉ có một phương duy nhất – phương anh. Dấu “-” đặt giữa câu thơ, tách hai chữ “một phương” riêng thành một vế. Chính điều đó đã tạo nên điểm nhấn, sâu lắng, nồng nàn của xúc cảm thơ. Xuân Quỳnh quả thực đã rất tự tin và chân thành bày tỏ tình cảm thủy chung của mình trước anh. Đó là sự tự tin của người phụ nữ bản lĩnh dám yêu và cũng dám đi đến tận cùng để đạt tình yêu của cuộc đời.
Tấm lòng thủy chung trong tình yêu là vẻ đẹp gắn liền với truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Đồng thời đây cũng là phẩm chất quan trọng của tình yêu đích thực, của hạnh phúc đời thường. Ca ngợi về tấm lòng thủy chung của người phụ nữ trong tình yêu đã khẳng định giá trị nhân văn cao đẹp trong thơ Xuân Quỳnh.
Để có được tình yêu vừa sôi nổi thiết tha, mãnh liệt vừa trong sáng thủy chung thì con sóng phải vượt qua đại dương mênh mông để đến với “bờ anh”.
Người phụ nữ đang yêu tin vào tình yêu sẽ đến bến bờ hạnh phúc dù trải qua bao khó khăn thử thách. Đúng vậy! Một tình yêu chân chính, đích thực, một niềm tin mãnh liệt vào tình yêu sẽ giúp họ vượt qua bao sóng gió cuộc đời cập đến bến bờ tương lai của hạnh phúc. Hãy nhìn vào hiện thực như trở thành quy luật, dù gió có ở thật xa nơi bãi bờ thì nó cũng sẽ tìm đến những bãi cát dài dù trải qua thật nhiều khó khăn. Tình yêu của em dù gặp biết bao trở ngại em vẫn vượt qua để đến bên anh, đến một mái ấm gia đình như Chế Lan Viên từng viết:
Ba khổ thơ với nỗi nhớ, sự trăn trở và tấm lòng chung thủy son sắt cùng với phép lặp, nhân hóa, ẩn dụ, sử dụng cách nói ngược với những hình ảnh đối lập đã khẳng định niềm tin mãnh liệt vào tình yêu, tình yêu đẹp sẽ vượt qua mọi thử thách. Tha thiết với tình yêu, khao khát sống mãi trường tồn với tình yêu nhà thơ đã có chút khắc khoải, lo âu về sự tan chảy của thời gian, đời người cũng mong manh và hạnh phúc của trái tim yêu Xuân Quỳnh cũng vậy. Nhưng nhớ da diết, yêu thương nồng nàn luôn đồng hành với nỗi lo âu khắc khoải:
Đời người trăm năm ngỡ dài thăm thẳm nhưng con tàu thời gian cứ vun vút lao đi không chờ đợi chúng ta. Bằng sự chiêm nghiệm của một trái tim đầy nhạy cảm nhà thơ nhận ra vũ trụ mãi vĩnh hằng – cuộc đời con người thì hữu hạn
Lo lắng tình yêu đổ vỡ, phai nhạt, khi đứng trước sự chảy trôi của thời gian. Nhưng người phụ nữ ấy vẫn luôn tin vào tương lai của tình yêu, vào ý nghĩa đích thực của tình yêu
“Sóng” là một tác phẩm thành công vang dội của Xuân Quỳnh. Bài thơ bộc lộ tất cả những cung bậc trong tình yêu, thể hiện tình cảm son sắt, thủy chung, tha thiết, cao thượng cùng bao nỗi nhớ thương, niềm tin yêu vào tình yêu cao cả không chấp nhận một tình yêu tầm thường và nhỏ hẹp. Khát vọng một tình yêu cao đẹp thủy chung. Phải có một tâm hồn thủy chung thì mới có những vần thơ đẹp và lung linh đến vậy. Xuân Quỳnh đã góp một hơi thở đắm say, một tiếng sóng đẹp đẽ làm tươi thắm thêm cho thi đàn hiện đại Việt Nam.
Bài làm mẫu 2Tình yêu là đề tài muôn thuở của những nhà thơ, nhà văn muốn hướng đến. Tuy nhiên, mỗi nhà thơ đều mang đến một nét đặc sắc riêng cho tác phẩm của mình. Ta biết đến Xuân Diệu với những cảm xúc yêu đương mãnh liệt và nồng cháy một Anh Thơ với chút e thẹn và ngại ngùng của người con gái khi đang yêu…Cho dù ở bất kể cảm xúc nào ở đâu thì tình yêu vẫn đẹp đẽ và chân thật. Ta biết đến Xuân Quỳnh về những sáng tác thấm đượm tâm tư , tình cảm của người phụ nữ. Người ta bắt gặp tình yêu nồng cháy của các lứa đôi với nhiều cảm xúc thiêng liêng qua “Thuyền và biển”. Tình yêu với những nỗi nhớ, niềm thương và lòng thủy chung một lần nữa lại được thể hiện qua bài thơ một cách rõ ràng và có phần mạnh mẽ hơn qua ba khổ thơ giữa của bài thơ Sóng:
Xuân Quỳnh đã sử dụng một cách tài tình hình ảnh của con sóng vỗ dạt dào để thể hiện cho tình yêu của người phụ nữ. Sóng có lúc dữ dội lúc dịu êm cũng giống như những cảm xúc của những người con gái khi yêu, lúc ngọt ngào và lãng mạn, có lúc lại mãnh liệt và đầy sức hút:
Nỗi nhớ trong tình yêu của Xuân Quỳnh không phải nỗi nhớ thoáng qua, nhẹ nhàng mà đó là một nỗi nhớ mãnh liệt và da diết . Nỗi nhớ ấy bao trùm cả đại dương “Con sóng dưới lòng sâu/ Con sóng trên mặt nước”, thời gian “…con sóng nhớ bờ “ Ngày đêm không ngủ được”; xâm chiếm tâm hồn của những con người cả trong cõi vô thức và tiềm thức lẫn ý thức và cả những khi tỉnh lẫn khi mơ “cả trong mơ còn thức”. Đúng là một nỗi nhớ cồn cào và rất da diết, không thể nào yên, không thể nào nguôi ngoai , nó cuồn cuộn, dạt dào như những con sóng biển triền miên không có hồi kết . Trong bốn câu thơ đầu, hình ảnh sóng lặp đi lặp lại ba lần như một điệp khúc của bản tình ca với những giai điệu da diết và mãnh liệt , như một ám ảnh thường trực về tình yêu và nỗi nhớ. Ba câu thơ gắn liền với những hình ảnh sóng giống như đợt sóng gối lên nhau, hối hả vươn tới bờ. Đó cũng là một trong những ẩn dụ nghệ thuật về những đợt sóng lòng đang dâng trào trong tâm hồn của người phụ nữ đang yêu. Sóng thì bao giờ cũng thức. Sóng không ngủ. Bởi vì sóng ngủ thì sống sẽ không tồn tại. Vì lí do này người ta đã thấy sóng là nhịp đập của biển và là trái tim của biển, là sự sống của biển. Sóng nhớ bờ không thể ngủ được cũng giống như nỗi nhớ của cô gái đang dành cho chàng anh, tình yêu bao giờ cũng vậy, không thể thiếu những nhớ nhung, mộng mị:
Con người đều sống trong hai trạng thái mơ và thức và còn nỗi nhớ anh đã xóa nhòa mọi khoảng cách, mọi giới hạn. Nỗi nhớ da diết trong tâm hồn của người con gái đã vượt qua mọi trạng thái. Nỗi nhớ đi từ miền ý thức cho đến những lúc vô thức. Nỗi nhớ đã trở thành nhịp sống tình yêu trong tâm hồn của những người phụ nữ, nó triền miên da diết như hơi thở. Nỗi nhớ người yêu cứ dai dẳng và đeo bám lấy con tim người phụ nữ đang yêu. Nó tồn tại ở mọi lúc và thường trực trong sâu thẳm trái tim em và có thể bất giác trào lên những cảm xúc nghẹn ngào . Ban ngày em nhớ anh vẫn còn chưa đủ và ban đêm những nỗi nhớ ấy lại tìm về trong cả những giấc mơ. Trong tâm trí em, bóng dáng anh vẫn luôn luôn khắc ghi và hiện hữu, em nhớ dáng người , em nhớ hình, nhớ cả những lời dịu ngọt và cả những cái ôm ấm áp.
Dù có phấp phỏng lo âu những e vẫn cố chấp trước cái vô tận của thời gian những người phụ nữ vẫn vững tin vào sức mạnh của tình yêu:
Nhà thơ dùng cách nói giả định mang theo những dự cảm về con đường còn rất nhiều những trắc trở của tình yêu, dự cảm của một trái tim người phụ nữ đa nghi , đa cảm luôn lo âu về khắc khoải về hạnh phúc đời thường. Chọn những cách nói ngược “Dẫu xuôi về phương Bắc/ Dẫu ngược về phương Nam”, Xuân Quỳnh muốn khẳng định dù cuộc đời có nghịch lý , ngang trái đến mức như nào thì em cũng vẫn chỉ hướng về một phương-“phương anh”. Đất trời có rộng lớn có như nào có bốn phương tám hướng còn tâm hồn người phụ nữ đang yêu chỉ có một phương. Đó là phương hướng của những tình yêu chung thủy và không bao giờ đổi thay như một lời khẳng định cái bất biến giữa vạn biến. Ta sẽ thấy được những vẻ đẹp của người phụ nữ vừa hiện đại vừa truyền thống và mãnh liệt và luôn có nhu cầu bộc lộ nhưng vẫn thủy chung sắc son.
Chưa thỏa mãn với sự khẳng định đó nhà thơ còn nhấn mạnh thêm qua hình ảnh Sóng:
Sóng khao khát để tới bờ như em khao khát muốn có anh. Sóng vượt qua mọi trở ngại để tới bờ như em bước qua mọi khó khăn trắc trở để cập bến hạnh phúc. Sóng muốn về với bờ sóng phải vượt qua được bão giông tố với bão bùng. Em muốn hướng về anh thì em sẽ phải vượt qua những cạm bẫy cuộc đời. Tình yêu gắn liền với cuộc sống và đời thương là dâu bể đa đoan. Tất cả những thử thách gian nan đang chờ trước mắt chúng ta và là điều không thể thiếu đối với tình yêu:
(Thơ tình cuối mùa thu)
Chẳng có tình yêu nào mà không phải trải qua thử thách và trải đầy hoa hồng cả. Để đến được với nhau sẽ phải trải qua biết bao những thử thách gian khổ trong cuộc sống và với em, tất cả những khó khăn fđó sẽ chẳng là gì cả . Nó không thể đủ sức mạnh để ngăn cản em đến bên anh. Bằng tình yêu nồng nhiệt và em sẽ vượt qua tất cả để đến bên a . Trải qua không gian và thời gian, cuối cùng sóng vẫn trở về tới bờ và em sẽ cũng lại về bên anh. Tình yêu trải qua thử thách và bão giông là tình yêu đẹp, cao cả nhưng dù có cao đẹp đến như nào cũng rất mong manh trước thời gian vô thủy vô chung.
Qua ba khổ thơ này Xuân Quỳnh đã khắc họa nỗi nhớ mãnh liệt và lòng thủy chung trong tình yêu. Dù đi đâu và về đâu dù có sóng gió như thế nào đi nữa vẫn hướng về người tình yêu. Đồng thời tác giả còn thể hiện những vẻ đẹp của người phụ nữ trong tình yêu được thể hiện qua hình tượng sóng. Tình yêu tha thiết và nồng nàn đầy khát vọng vượt lên trên giới hạn cuộc sống đời thường. Ba khổ thơ trên nói riêng và những bài thơ nói chung đã để lại trong lòng người đọc một ấn tượng sâu sắc và khó phai. Trong biển lớn tình yêu cuộc đời này đã có biết bao con sóng tìm về bờ. Tình yêu vẫn sẽ luôn là đề tài hấp dẫn với mọi lứa tuổi để mọi người đi tìm lời giải cho ẩn số tình yêu trong một hành trình gian nan để đi tìm kiếm tình yêu. Sống là phải yêu, yêu là sống hết mình với cuộc đời vốn rất nhiều yêu thương này.
Phân tích khổ 5 6 7 bài Sóng Bài làm mẫu 1Nhắc đến thơ tình không thể không nhắc đến nữ thi sĩ Xuân Quỳnh, một trong những nhà thơ nổi bật của nền thơ hiện đại Việt Nam. Xuân Quỳnh viết về tình yêu rất thực, thơ bà da diết, dạt dào nhưng cũng đầy quyết liệt, mạnh mẽ. Vào những năm 1967, khi mà đất nước ta đang trong những ngày chống giặc cứu nước. Bên cạnh những bản hùng ca chiến trận ca ngợi tinh thần cách mạng của các chiến sĩ thì còn có những bản tình ca của đời sống, Xuân Quỳnh đã viết nên bài thơ “Sóng” mang nét riêng giữa muôn vàn vẻ đẹp của thơ ca vào khoảng thời gian này, “Sóng” đã thể hiện thật sinh động những vẻ đẹp trong tâm hồn của nữ thi sĩ đồng thời cho thấy được tài năng trong ngòi bút của Xuân Quỳnh khi bộc lộ những cảm xúc tình cảm nội tâm đầy tinh tế qua thơ.
Thi phẩm “Sóng” đã đưa độc giả đến với những chân trời của những cảm xúc vui buồn, lắng lo, hạnh phúc và cả chân trời của sự thủy chung trong tình yêu. Những nguồn xúc cảm da diết, đậm sâu trong tình yêu được thể hiện rõ nhất của khổ 5, 6, 7 của bài thơ:
Xuân Quỳnh đã rất tinh tế dùng hình ảnh sóng để chỉ em – người con gái đang yêu. Em cũng như con sóng ngoài biển cả dạt dào, dù là dưới đáy sâu nơi đại dương rộng lớn hay chỉ thoáng qua lênh đênh trên mặt biển thì vẫn luôn nhớ về anh – người mà em yêu. Nỗi nhớ ấy đã vượt cả không gian rộng lớn, biển kia có sâu rộng cũng không đo được bằng nỗi nhớ nơi em. Sóng biển cũng chính là những cơn sóng lòng đang cuộn trào dữ dội trong em, nỗi nhớ về người thương thật mạnh mẽ biết bao. Tiếng “ôi” cất lên nghe thật tha thiết, nỗi nhớ trào dâng nơi sâu thẳm trái tim người con gái. Con sóng ngoài kia vẫn cứ thế theo từng đợt gió, dù êm đềm hay dữ dội ngày đêm vẫn vỗ tới bờ, vẫn tìm đến bờ thì em cũng như thế, cũng nhớ anh ngày đêm, mong được đến bên anh. Nỗi nhớ khôn nguôi ấy luôn thường trực trong tâm trí, khiến “em” không khỏi thao thức, trăn trở “không ngủ được”, ngay cả trong giấc mơ vẫn là bóng hình của người thương trong đó. Nỗi nhớ vượt lên cả sự chảy trôi của thời gian, của ngày đêm yêu, của tháng năm yêu. Tình cảm nơi tâm hồn Xuân Quỳnh thật chân thành, thắm thiết, sâu sắc và mãnh liệt biết bao.
Nỗi nhớ ấy tựa như nỗi nhớ của người con gái xưa:
Tình yêu thật nồng cháy, dẫu cho có khoảng cách xa xôi, có mỗi người mỗi hướng thì lòng thủy chung, son sắt vẫn luôn cháy mãi nơi đáy lòng. Dù người tình có ở nơi đâu, có ở chốn phương Bắc lạnh giá hay chốn trời Nam xa xôi thì cũng không làm em nản lòng mà thôi nhớ, thôi nghĩ về anh. Khoảng cách có xá gì đâu khi tim luôn nhìn về một hướng- hướng anh- phương hướng tình yêu chúng mình. Khoảng cách địa lý không thắng nổi sự yêu thương của tình yêu mãnh liệt, khi trái tim hai con người đã gắn kết như sợi tơ hồng đã se duyên, khi người kia đã đặt trọn vẹn niềm tin cho đối phương của mình. Điệp từ “dẫu” kết hợp với hai cụm động từ “ngược về phương Nam” ,” xuôi về phương Bắc” như một cách thể hiện những thách thức, trắc trở trong tình yêu và sự chiến thắng khó khăn ấy bằng tình yêu mãnh liệt. Lời nguyện thề nơi nào em cũng hướng về anh thật đáng quý, đáng trân trọng biết bao. Là một người con gái, nhưng Xuân Quỳnh không hề đứng đó là đợi chờ tình yêu, nhà thơ luôn thể hiện sự chủ động của mình, với nhà thơ, tình yêu luôn phải rõ ràng và bình đẳng, đã yêu là phải sống thật trọn vẹn, hết lòng với tình yêu, bởi thế mà những vần thơ không chỉ mang nét dễ thương, đáng yêu mà còn đầy rắn rỏi, quyết liệt và dứt khoát.
Trong cuộc sống, mỗi công việc đều có những khó khăn và áp lực riêng cũng như trong tình yêu vậy, mỗi mối tình đều có những trắc trở, thử thách nhất định. Song, nếu cùng nhau cố gắng, cùng nhau vun đắp, cùng hiểu và bao dung cho nhau thì rồi tình yêu cũng sẽ kết thành trái ngọt, ngày mà tình yêu được đến đích cuối cùng của bến bờ hạnh phúc:
Sóng biển ngoài đại dương bao la kia cũng vượt qua bao giông tố, gió mưa mới vỗ tới bờ cát bình yên. Cũng như tình yêu anh và em cũng phải cùng nhau cố gắng, nắm tay nhau bước qua những gian truân, cám dỗ và sóng gió của cuộc đời mới tới ngày trọn vẹn. Ca dao xưa có câu:
Tình yêu là sức mạnh hay chính tình yêu đã mang lại sức mạnh lớn lao như thế.
Ba khổ thơ tuy không quá dài nhưng cũng đủ để ta thấy được một tâm hồn yêu hết mình, sống hết mình với tình yêu của nữ sĩ Xuân Quỳnh. Tiếng thơ ấy cũng chính là nỗi lòng của bao người đang yêu và được yêu, đặc biệt là những thanh niên trẻ tuổi giàu khát vọng yêu. “Sóng” đích thực đã chạm đến tất cả trái tim của người đọc bằng những cảm xúc tự nhiên nhất, khiến họ rung cảm và thổn thức với từng thanh âm, giai điệu của bài thơ.
Bài làm mẫu 2Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Thơ Xuân Quỳnh luôn thể hiện một phong cách riêng độc đáo. Đó là tiếng thơ của một trái tim phụ nữ hồn hậu, chân thành và khao khát yêu thương. “Sóng” chính là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Quỳnh. Tâm hồn người phụ nữ nặng tình, thủy chung, mãnh liệt khi yêu ấy được thể hiện sâu sắc nhất qua khổ 5, 6 và 7 trong bài thơ “Sóng”.
Thơ Xuân Quỳnh rất giàu cảm xúc với những cung bậc khác nhau khi hạnh phúc đắm say, lúc đau khổ, suy tư được tạo tác nên từ giọng thơ đằm thắm của một người phụ nữ rất mực hiền hậu. Bài thơ “Sóng” là tâm sự, nỗi lòng sâu kín của nhà thơ trong bộn bề suy nghĩ về tình yêu. Trong khổ thơ, 5, 6 và 7 với những ngôn từ giản dị, hình ảnh đối lập, đa chiều và giàu sức liên tưởng đã thể hiện rõ nhất những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ: nghĩa tình, thủy chung.
Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã từng bày tỏ:
Quả thực, thi sĩ luôn mượn cảnh để bày tỏ nỗi lòng. Nỗi lòng thi nhân luôn nhuốm trong từng động thái tinh vi nhất của cảnh vật. Xuân Quỳnh đã mượn hình ảnh con sóng làm biểu tượng cho tâm hồn người phụ nữ và thay người phụ nữ tuyên ngôn tình yêu.
Tình yêu vốn không có công thức. Trong thơ Xuân Quỳnh cũng vậy, tình yêu là sự bí ẩn ngọt ngào và quyến rũ:
Con sóng tồn tại ở hai không gian là “lòng sâu” và “trên mặt nước” khẳng định tình yêu của người phụ nữ dù tự đáy tâm hồn hay ngoài mặt đều dạt dào và liên tục không ngừng nghỉ.
Thán từ “ôi” vang nên đầy mãnh liệt và diệu kì. Chính tác giả cũng ngạc nhiên mà phải cảm thán rằng: nỗi nhớ bờ của con sóng ám ảnh, vần vũ trong lòng đến mức “ngày đêm không ngủ”. Có bao giờ con sóng trôi dạt dào đâu? Có bao giờ nỗi nhớ của em về anh có thể chấm dứt đâu?
Trong bài thơ “Đêm nay Bác không ngủ”, nhà thơ Minh Huệ đã viết:
Ở đây, sự chủ động “không ngủ” của Bác mà chúng ta đã từng bắt gặp trong thơ Minh Huệ là vì nặng lòng với nước. Còn sự chủ động “ngày đêm không ngủ” trong thơ Xuân Quỳnh chỉ mang tính tình cảm cá nhân. Song ấy là nỗi lòng chung của hàng triệu người phụ nữ chịu cảnh chia xa, là vẻ đẹp ngọt ngào của con người khi yêu nên bài thơ mới có sức thu hút và ý nghĩa tới vậy.
Sự nhớ nhung đẩy nên cao trào khi “cả trong mơ còn thức” để mà nhớ. Nỗi nhớ cũng quần đảo không ngừng trong khoảnh khắc nhân vật thiếp đi. Thế mới thấy tình yêu của tác giả với người thương sâu sắc đến mấy.
Khắc họa vẻ đẹp chung thủy của người phụ nữ khi yêu, Xuân Quỳnh không dùng lời thề nguyền đêm trăng hay chén rượu bôi, kỉ vật duyên mà nhà thơ thể hiện bằng những lời thủ thỉ hết sức tự nhiên, đằm thắm, chân thành:
Hai cặp từ đối lập “nam – bắc” và “xuôi – ngược” và biện pháp điệp cấu trúc đã bao quát toàn bộ không gian đất nước Việt Nam và vũ trụ và nhấn mạnh thêm ý thơ. Từ “nghĩ” không chỉ nhấn mạnh tới suy nghĩ đơn thuần trong đầu óc con người mà nhắc tới cả ý chí, niềm tin và khát vọng.
Trong trời bể sâu rộng ấy, người con gái vẫn giữ nguyên bến đỗ duy nhất, đó là “phương” anh. Tác giả phát hiện ra thêm một phương trời rất độc đáo, mới lạ, ấy là phương anh. Chính điều ấy đã khiến bài thơ thêm nét dễ thương, chân thật, nữ tính hơn. Khổ thơ đã làm rõ nhất vẻ đẹp thủy chung của người phụ nữ trong tình yêu. Nó không chỉ là vẻ đẹp có ở riêng Xuân Quỳnh mà còn là vẻ đẹp chung của con người Việt Nam.
Cuối cùng, sức vượt trùng khơi của con sóng để tìm về bờ đã chiến thắng tất cả:
Sóng ngàn năm vẫn sẽ vỗ bờ. Đại dương rộng thật đấy, lắm bão giông thật đấy nhưng sóng có ngày sẽ đến được đích. Từ chỉ số lượng “trăm nghìn” nhấn mạnh vào tình cảm dào dạt, đong đầy của tình yêu. Người phụ nữ trong thơ thêm một lần nữa nhất mạnh triết lí mà ông cha xưa nhắc tới:
Qua đây, Xuân Quỳnh đưa đến chúng ta một chân lý trong tình yêu: Dù có bao nhiêu khó khăn, chỉ cần con người giữ vững trái tim yêu thương, nhất định có ngày sẽ đoàn tụ. Những câu thơ làm ấm lòng biết bao con người phải chịu nỗi đau chia lìa. Tình yêu của Xuân Quỳnh đã vượt qua mọi giới hạn, luôn cháy bỏng và đầy nữ tính. Vì thế, nó vượt lên tình cảm cá nhân cá thể mà trở nên thánh thiện, thuần khiết hơn.
Tuy chỉ là ba khổ thơ năm chữ ngắn, sóng Xuân Quỳnh đã truyền cho người đọc cảm hứng thiết tha về tình yêu đôi lứa. Tình yêu ấy vẫn sống mãi cùng thời gian và trong lòng những con người biết yêu.
Bài làm mẫu 3Xuân Quỳnh là một trong những nữ thi sĩ nổi tiếng nhất trên thi đàn thơ a Việt Nam hiện đại. Xuân Quỳnh là một nhà thơ có nhiệt huyết về tình yêu cháy bỏng, hầu hết trong các tác phẩm của bà, những cảm xúc về tình yêu luôn dồi dào, mãnh liệt. Và Sóng là một trong những bài thơ tiêu biểu cho cách phóng bút đó của Xuân Quỳnh. Đoạn thơ sau được trích trong bài thơ, đoạn thơ rất giàu ý vị nỗi nhớ về tình yêu sâu sắc của một người con gái
Nỗi nhớ bao trùm cả không gian:” sóng dưới lòng sâu, sóng trên mặt nước”. Thao thức trong mọi thời gian: “ngày đêm không ngủ được”
Giọng thơ dào dạt, náo nức, mãnh liệt, diễn tả nỗi nhớ da diết, không thể nào nguôi, cứ cuồn cuộn, dào dạt như sóng biển triền miên. Sóng nhớ bờ mãnh liệt, tha thiết, còn em nhớ anh đắm say hơn bội phần:
Cách nói cường điệu nhưng hợp lí, nhằm tô đậm nỗi, bày tỏ tình yêu một cách chân thành, tha thiết mà mạnh dạn, mãnh liệt. Cách nói khẳng định: Dẫu xuôi – phương bắc; dẫu ngược – phương nam, em: vẫn « Hướng về anh một phương là lời thề thủy chung tuyệt đối trong tình yêu: dù đi đâu về đâu vẫn hướng về người mình đang thương nhớ đợi chờ. Tác giả muốn khẳng định: dù cuộc đời có nghịch lí, trái ngang đến mức nào thì em cũng vẫn chỉ hướng về một phương duy nhất- phương anh.
Mượn hình ảnh của sóng: Sóng ngoài đại dương – Con nào chẳng tới bờ à quy luật tất yếu. Ở khổ thơ này tác giả sử dụng lối nói giả định để nói về hoàn cảnh vô cùng khó khăn, cách trở. Dù phải bươn trải ngược xuôi trong cuộc đời bao la rộng lớn để tìm kế mưu sinh, phải vẫy vùng trong phương bắc, phương nam rất rộng dài nhưng trái tim người con gái luôn luôn nghĩ về người mà mình yêu. Đó chính là lòng chung thủy. Cách giả định của tác giả chính là lời khẳng định sự thủy chung duy nhất để khẳng định sự bất biến trước vạn biến của cuộc đời.
Xuân Quỳnh không chỉ mượn sóng để nói về người con gái khi yêu mà còn dùng lối nói đối sánh giữa sóng và em để nói về nỗi nhớ của em và bởi vậy nỗi nhớ của em càng nhân lên gấp bội.
Sóng tới bờ dù cách trở: Tình yêu là sức mạnh giúp em và anh vượt qua gian lao, thử thách để đạt đến bến bờ hạnh phúc. Xuân Quỳnh thể hiện cái tôi của một con người luôn có niềm tin mãnh liệt vào tình yêu.
Bài thơ có nhan đề là “Sóng”, đó vừa là sóng biển nhưng đồng thời cũng chính là những con sóng lòng của tâm hồn người phụ nữ khi yêu. Cùng với hình tượng “sóng” thì trong bài thơ còn xuất hiện hình tượng “em”. Sóng là ẩn dụ của tâm hồn người con gái khi yêu, là sự hóa thân, phân thân của cái “tôi” trữ tình. “Sóng” và “em” tuy hai mà một, có lúc phân đôi để soi chiếu vào nhau, để tìm ra sự tương đồng, có lúc lại hòa làm một để tạo nên âm vang cộng hưởng. Hai hình ảnh cứ đan xen, quấn quýt, hòa quyện song song và xuất hiện từ đầu cho tới cuối bài thơ. Tất cả đều thể hiện khát vọng tình yêu, khát vọng trào dâng trong tâm hồn người phụ nữ khi biết yêu.
Ở khổ thơ này tác giả sử dụng lối nói giả định để nói về hoàn cảnh vô cùng khó khăn, cách trở. Dù phải bươn trải ngược xuôi trong cuộc đời bao la rộng lớn để tìm kế mưu sinh, phải vẫy vùng trong phương bắc, phương nam rất rộng dài nhưng trái tim người con gái luôn luôn nghĩ về người mà mình yêu. Đó chính là lòng chung thủy. Cách giả định của tác giả chính là lời khẳng định sự thủy chung duy nhất để khẳng định sự bất biến trước vạn biến của cuộc đời.
Xuân Quỳnh không chỉ mượn sóng để nói về người con gái khi yêu mà còn dùng lối nói đối sánh giữa sóng và em để nói về nỗi nhớ của em và bởi vậy nỗi nhớ của em càng nhân lên gấp bội. Từ nỗi nhớ xuất hiện một niềm tin mãnh liệt:
Khổ thơ tác giả không chỉ phát hiện ra quy luật của sóng: dù gió to bão lớn thế nào thì con sóng “đại dương”, con sóng biển khơi xa cũng hướng “tới bờ” mà tác giả còn nói về hành trình tìm đến bến bờ hạnh phúc, dù khó khăn gian khổ nhưng vẫn thủy chung. Người con gái khi yêu vượt mọi khó khăn cản trở để đi tìm bến đỗ của tình yêu, bến bờ hạnh phúc.
Có rất nhiều nỗi niềm, rất nhiều trăn trở nhưng còn đọng lại trong câu thơ buồn đó là sự suy tư về “cuộc đời”, về “năm tháng”, về vũ trụ vô tận vô cùng. Để rồi, tự lúc nào tứ thơ đã thể hiện sự lo âu của Xuân Quỳnh về cái hữu hạn của đời người trước cái vô tận của thiên nhiên vũ trụ. Từ lo lắng nhưng dường như nhà thơ cũng cảm nhận được một điều rằng: đến với tình yêu, sống hết mình với tình yêu thì con người mới trở nên bất tử vĩnh hằng.
Bài làm mẫu 4Voltaire từng nói “Thơ là âm nhạc của tâm hồn, nhất là tâm hồn cao cả, đa cảm”, khẳng định điệu tâm hồn thấm nhuần trong từng câu thơ. Bởi vậy, ta có dịp gặp gỡ điệu hồn sâu lắng của người con gái trong tình yêu, qua lời thơ “Sóng” của thi sĩ Xuân Quỳnh. Khổ thơ năm, sáu, bảy kết tinh bút lực nhà thơ và tiếng lòng phong phú ấy.
Sau một chuyến đi thực tế ở biển Diêm Điền, nguồn cảm hứng trào dâng trong lòng nhà thơ khi bắt gặp hình ảnh con sóng giữa đại dương. Bài thơ được trích trong tập “Hoa dọc chiến hào” (1967). Khi cả nước hòa trong âm vang của cuộc kháng chiến trường kỳ, các cây bút thường lấy tình yêu đôi lứa – cái tôi mở đường dẫn tới tình yêu tổ quốc- cái ta. Thì tiếng thơ Xuân Quỳnh thuần túy nói về tình cảm lứa đôi, nên “Sóng” trở thành bông hoa lạ giữa vườn hoa nghệ thuật lúc bấy giờ.
Mượn hình tượng con sóng xuyên suốt bài thơ để thể hiện những tâm tư tình cảm của cô gái khi yêu, Xuân Quỳnh không phải người đầu tiên. Nguyễn Thị Hồng Ngát cũng gửi tình yêu nồng nàn vào biển:
Nhưng Xuân Quỳnh độc đáo khi sử dụng phép ẩn dụ không hoàn toàn giữa “em” và sóng, tạo sự kết hợp hài hòa giữa sóng biển và sóng lòng. Nếu những khổ thơ trước, con sóng tự thức về tâm hồn mình, suy tư về nguồn cội tình yêu thì đến khổ năm, con sóng và nhân vật trữ tình thức nhận những thuộc tính của tình yêu lứa đôi:
Biện pháp nhân hóa biến sóng thành chủ thể của nỗi nhớ niềm thương của trái tim yêu tha thiết. Điệp từ “con sóng” gợi hình ảnh những con sóng nhớ thương trào hết lớp này đến lớp khác vừa thể hiện sự dào dạt, sôi trào vừa miên man, lắng sâu của nỗi tương tư. Niềm mong nhớ trải dài, choáng ngợp không, thời gian “lòng sâu, mặt nước”, “đêm, ngày” mang chiều kích vô biên trong tâm tưởng cô gái, không lúc nào yên lặng bởi cuộn trào những con sóng nhớ nhung. Nữ sĩ gửi lòng vào sóng như chưa thỏa, nên “em” trực tiếp xuất hiện nói lên tiếng lòng sâu thẳm: “Lòng em nhớ đến anh”, biên cương khổ thơ nới rộng bởi cảm xúc tràn bờ. Nỗi nhớ mong “anh” không chỉ làm “em” thao thức, mà còn chiếm trọn tiềm thức, vô thức của cô gái. Nhà thơ phá vỡ mọi giới hạn đưa bạn đọc tới thế giới vô cùng của tâm hồn con người.
Sóng cùng “em” suy ngẫm về lòng thủy chung trong tình duyên:
Biện pháp đối lập “ngược, xuôi” tái hiện hình bóng người con gái lấy điểm tựa tình yêu để lo toan trong hành trình khác nhau của cuộc sống. Điệp ngữ “dẫu” nhấn mạnh sự bất biến của trái tim yêu trước dòng đời dài rộng, vạn biến. Nhà thơ đặt khái niệm phương anh cạnh phương bắc, nam tách biệt không gian địa lý và tình yêu. Nếu trong địa lý bốn phương tám hướng con người dễ lạc lối thì trong tình yêu, “em” chỉ hướng về một phương “anh”, đó cũng chính là bản chất của tình yêu chân chính. Lòng sắt son dẫn nhân vật “em” vượt trùng cách trở đổ về bến bờ hạnh phúc như sóng chỉ hướng đến đích cuối cùng là bờ. Tác giả nhìn sâu vào lòng mình để nắm bắt quy luật của sóng.
Con sóng và “em” cũng cất lên niềm tin vào tương lai tình yêu trọn vẹn:
Hình ảnh ước lượng”trăm ngàn” con sóng vượt mọi khoảng cách đến bờ, khơi dậy trong lòng thi sĩ sự tin tưởng vào tình yêu đôi lứa là hành lý, đưa con người đến cái đích cuối cùng của cuộc đời, có thể vượt lên những giới hạn của đời sống. Đó không phải suy nghĩ nông nổi, bồng bột mà là sự nhận thức về quy luật, chân lý của đời sống nên nó trong sáng, trọn vẹn và tha thiết, cháy bỏng.
Tiếng thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh vừa nhẹ nhàng khi sục sôi, vừa suy tư, trầm lắng. Cách xây dựng hình tượng tài tình, kết hợp ngôn từ sống động và thể thơ năm chữ mang giọng điệu linh hoạt, giúp người đọc cảm thấu bản tâm phức tạp của người con gái khi yêu trong hành trình thức nhận những quy luật tình yêu chính đáng, ngợi ca tiếng nói nhân bản của con người.
Bài làm mẫu 5Thơ Xuân Quỳnh có nét rất riêng, trong số các nhà thơ nữ của Việt Nam, đó là: chân thành và đam mê. Trong thơ chị cháy lên cái sắc màu của một thế giới lung linh – thế giới tình yêu. Thơ Xuân Quỳnh là niềm khao khát hạnh phúc. Nói đến cảm xúc đó trong thơ Xuân Quỳnh có nghĩa là nói đến “Sóng”. Trong bài thơ này, nỗi nhớ niềm thương của người đang yêu được Xuân Quỳnh diễn tả thật cảm động và đầy nghệ thuật. Nỗi nhớ như bao trùm cả không gian bao la. Nó chiếm cả tầng sâu, bề mặt của tâm hồn. Và nó khắc khoải da diết được thể hiện trong ba khổ thơ cuối 5, 6, 7 của bài thơ “Sóng”.
“Con sóng dưới lòng sâu; con sóng trên mặt nước” là những cung bậc, những biểu hiện phong phú đa dạng nỗi nhớ của “em”. “Sóng trên mặt nước” là biểu hiện nỗi nhớ khi thương. Còn “sóng dưới lòng sâu” là nỗi nhớ âm thầm lắng sâu trong cõi lòng và “cả những lúc giận anh mà lòng em vẫn nhớ”. Nỗi nhớ ấy mới khắc khoải, bồn chồn, thổn thức sâu thẳm biết nhường nào! Hai câu thơ “Lòng em nhớ đến anh; Cả trong mơ còn thức” đã diễn tả được một cách thật xúc động và chân thực cõi lòng của người phụ nữ đang yêu bằng một tình yêu thật trong sáng và mãnh liệt. “Em” nhớ “anh” từ cõi thực đến cõi mơ. Cái thức trong giấc mơ mới là tình cảm thật nhất, sâu sắc nhất của cõi lòng. Bàn chân con người có thể “xuôi về phương Bắc” hay “ngược về phương Nam”, nhưng trái tim chỉ “hướng về anh một phương” như hoa hướng dương hướng về mặt trời vậy… Ở đây, một lần nữa, Xuân Quỳnh đã mượn kết cấu trùng điệp để tăng tiến nỗi nhớ của lòng mình. Với người phụ nữ ấy, không phải phương Bắc hay phương Nam mà chỉ là một phương duy nhất. Đó là phương của tâm trạng, của trái tim – “phương anh”. Thành thật và cháy bỏng đến nhường ấy, da diết đến nhường ấy! Dù hơi táo bạo, nhưng sự đắm say của khát vọng tình yêu đã trở thành điểm tựa để thơ Xuân Quỳnh cất cánh. Đoạn thơ trên của Xuân Quỳnh vừa là tiếng nói tha thiết cháy bỏng của trái tim người phụ nữ trong nỗi nhớ, vừa được viết với thủ pháp nghệ thuật của bàn tay một thi sĩ tài hoa. Nỗi nhớ được thể hiện hằng hình tượng gián tiếp chưa đủ, nó còn được biểu hiện trực tiếp như trái tim không thể kìm nén nổi, tự thốt thành lời:
Để nhấn mạnh tính đa dạng của nỗi nhớ, tác giả còn sử dụng thủ pháp điệp “con sóng” (ba lần), nhân cách hoá “con sóng nhớ bờ”, biện pháp đối lập “dưới lòng sâu” – “trên mặt nước”. Nỗi nhớ ở đây đã trở thành tình cảm thường trực trong “trái tim bé nhỏ mà không bến bờ” của thi sĩ cứ trào dâng, cứ tầng tầng, lớp lớp tưởng chừng như tới tột độ, cứ nối tiếp nhau hối thúc trào ứ trong tâm hồn. Đã có biết bao câu ca dao, biết bao bài thơ viết rất hay về nỗi nhớ của người phụ nữ trong tình yêu:
(Hoàng Thị Minh Khanh)
Ở trong bài thơ này, Xuân Quỳnh đã có thêm một tiếng nói mới mẻ về tình cảm đó bằng những vần thơ giản dị mà sâu sắc và không kém phần độc đáo.
Tình yêu chân chính là như vậy: vừa sôi nổi thiết tha, mãnh liệt, vừa trong sáng, thuỷ chung. Vì tình yêu mà thi sĩ suy tư ở đây không phải là một thứ tình cảm phiêu diêu, huyền ảo nào mà là tình yêu trần thế gắn với đời thường. Mà đời thường không hoàn toàn bình yên, phẳng lặng; trái lại, lắm khi gặp giông tố, bão bùng. Vì vậy, trong tình yêu cần phẩm chất thuỷ chung, ý chí, nghị lực, sức mạnh của tình cảm để vượt qua mọi không gian, thời gian, mọi trắc trở để tìm đến bến bờ của hạnh phúc lứa đôi:
Hãy quan sát cái hiện tượng gần như trở thành quy luật có vẻ nghịch lý của đại dương. Dù gió từ bờ thổi ra thì sóng ở ngoài xa vẫn hướng vào bờ. “Em” cũng thế, cho dù gặp biết bao trở ngại, “em” cũng sẽ vượt qua hết để đến với “anh”, đến với một mái ấm hạnh phúc gia đình… (như Chế Lan Viên đã viết):
Khi đã yêu thực lòng thì dù muôn vời cách trở, chúng ta vẫn đến được với nhau. Ca dao xưa đã từng viết:
Tình yêu là như vậy, luôn luôn gắn liền với lòng tin, tin ở cuộc đời, tin ở người mình yêu, tin ở chính sức mạnh của tình yêu. Vì thế mà qua bấy nhiêu năm tháng sống dưới cảnh đạn bom tàn phá những gì quý giá do chính bàn tay mình xây dựng nên, vậy mà trong tâm hồn người con gái bé nhỏ: “Nguyệt vẫn có tình yêu và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống, cái sợi chỉ xanh óng ánh ấy dù cho bao nhiêu bom đạn dội xuống cũng không thể đứt, không thể tàn phá nổi” (Mảnh trăng cuối rừng). Bài thơ “Sóng” thoáng một chút khắc khoải, lo âu về sự chảy trôi của thời gian, cái ngắn ngủi của cuộc đời mình và tình yêu của bản thân. Giữa lúc trái tim đang yêu nồng nàn, yêu hết mình vẫn thấp thoáng một dự cảm day dứt rất chính đáng:
Biển dù rộng tới đâu rồi cũng có bờ, có giới hạn và những đám mây không thể dừng lại mãi mãi trên biển, mà chúng tiếp tục cuộc hành trình trên bầu trời để đi đến cõi vô tận xa xăm. Cũng thế, cuộc đời con người tuy dài nhưng không phải vĩnh hằng, dù con người không mong đợi nhưng năm tháng vẫn bình thản trôi qua đời người theo quy luật tất yếu khắc nghiệt của thời gian. Không gian và thời gian là vô hạn. Ở một chỗ khác, Xuân Quỳnh cũng đã có một câu thơ tương tự “Thời gian như là gió/Mùa đi theo tháng năm/Tuổi theo mùa đi mãi”.
Vì thế, đứng trước biển, con người càng có cảm giác về cái nhỏ nhoi, hữu hạn của kiếp người trước cái vĩnh hằng của vũ trụ. Do đó, con người luôn luôn có khát vọng được sống trọn vẹn trong tình yêu, khát khao được gắn bó mãi mãi với cuộc sống này, hoà nhập với cuộc đời vĩnh hằng bằng tình yêu của mình. Niềm khát khao ấy, Xuân Quỳnh lại gửi vào hình tượng “sóng”: Những con sóng tan ra không phải để biến mất trên đại dương mà là để hóa thân, để tồn tại vĩnh viễn trong vô tận các con sóng khác. Cũng thế, con người sẽ ra đi nhưng tình yêu thì ở lại, một tình yêu vô tận, vĩnh hằng như sóng giữa biển khơi. Đây là một khát vọng rất con người:
Tình yêu của bản thân thì hữu hạn với đời người. Muốn nó đi vào vĩnh hằng, chỉ còn một cách là hoà tan tình yêu vào những con sóng tình yêu của biển đời để ngàn vạn năm sau, con sóng đó “Vẫn hát mãi bên ghềnh/Một tình chung không hết” (Xuân Diệu). Ở đây, tình yêu dường như đã lớn hơn cả bản thân, dài hơn cả cuộc đời. Trong bài thơ “Tự hát”, nữ thi sĩ Xuân Quỳnh cũng đã khẳng định:
Như vậy, bằng trái tim phụ nữ đằm thắm, thiết tha, bằng bút pháp thơ giản dị mà hàm súc, hồn nhiên mà đầy nghệ thuật, Xuân Quỳnh qua bài thơ “Sóng” đã làm nổi bật được vẻ đẹp và sức sống của tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu – một tình yêu giàu nữ tính, rất truyền thống mà cũng rất hiện đại.
Phân tích Sóng khổ 5 6 7 Bài làm mẫu 1Có thể nói, tình yêu là đề tài muôn thuở mà nhiều nhà thơ, nhà văn muốn hướng tới. Chúng ta đã từng biết đến Xuân Diệu – ông hoàng của thơ tình với những cảm xúc yêu đương mãnh liệt, nồng cháy. Hay là một Anh Thơ với chút e thẹn, ngại ngùng của người con gái khi yêu. Tình yêu, dù là ở bất kì cảm xúc nào thì nó cũng đều đẹp đẽ và chân thật. Xuân Quỳnh là một nữ nhà thơ được biết đến với những sáng tác thấm đượm tâm tư và tình cảm của người phụ nữ. Bà khát khao yêu và được yêu. Người ta bắt gặp tình yêu lứa đôi với nhiều cảm xúc thiêng liêng qua “Thuyền và biển”. Tình yêu với những nỗi nhớ, niềm thương một lần nữa lại được thể hiện một cách rõ ràng và có phần mạnh mẽ hơn qua bài thơ “Sóng”. Trong bài thơ, nhà thơ đã diễn tả được nỗi nhớ thương tới người yêu một cách rõ ràng và mạnh mẽ nhất trong ba khổ thơ 5, 6, 7.
“Sóng” được sáng tác trong chuyến đi thực tế của nhà thơ ở vùng biển Diêm Điền. Nó được sáng tác năm 1967, in trong tập “Hoa dọc chiến hào”. Bài thơ là tiếng lòng của người thi sĩ hay cũng chính là tiếng nói từ trái tim của những người phụ nữ đang đắm chìm trong vị ngọt tình yêu. Nó là tổng hòa tất cả những cung bậc cảm xúc của tình yêu, có yêu, có thương, có những nỗi nhớ nhẹ nhàng cũng có cả những nỗi nhớ mãnh liệt, da diết.
Nhà thơ đã sử dụng một cách tài tình hình ảnh của con sóng để vỗ dạt dào để tượng trưng cho người phụ nữ. Sóng “dữ dội và dịu êm” cũng chính là những xúc cảm của người con gái khi yêu, có lúc ngọt ngào, lãng mạn một cách nhẹ nhàng, tha thiết, có lúc lại nóng bỏng, mãnh liệt và đầy sức hút.
Giữa biển khơi mênh mông, rộng lớn, có biết bao con sóng, làm sao ta có thể đếm hết được. Con sóng nhiều là vậy, vô tận là vậy nhưng tất cả đều có chung một nỗi nhớ da diết tới bờ. Có sóng dềnh dàng, cuồn cuộn trên mặt nước hay những con sóng đang uốn mình dưới lòng sâu. Dù là con sóng nào đi chăng nữa thì chúng cũng muốn được trôi dạt vào bờ, được ôm ấp và vỗ về bờ cát đang đứng ở trong kia, đợi chờ, mong ngóng. Từ chân sóng đến ngọn sóng, tất cả đều mong muốn được nhanh chóng chạm tay vào bờ, cảm nhận được hơi ấm từ vòng tay mà bờ đang dang rộng sẵn để chờ sóng dạt vào. Nỗi nhớ ấy làm sóng “không ngủ được”, lúc nào cũng vỗ, cũng chuyển động để thỏa nỗi nhớ da diết ấy. Sóng nhớ bờ cũng chính là nỗi nhớ của em dành cho anh bởi vì tình yêu thì không bao giờ có thể thiếu được những nỗi nhớ thương, mộng mị.
Nỗi nhớ ấy như đeo bám lấy trái tim người phụ nữ. Nó tồn tại mọi lúc mọi nơi, luôn thường trực trong trái tim em và lúc nào cũng có thể trào lên những cảm xúc nghẹn ngào, lưu luyến. Không gặp anh, em thấy nhớ. Gặp anh rồi, được ở bên anh nhưng em cũng thấy nhớ. Nỗi nhớ ấy làm em không muốn rời xa anh dù chỉ là một phút giây ngắn ngủi. Ban ngày em nhớ đến anh chưa đủ, nỗi nhớ còn tìm về trong cả những giấc mơ. Dù chìm trong giấc ngủ, em cũng không thôi nhớ đến anh. Em mơ đến khuôn mặt anh, đến giọng nói nhẹ nhàng và cả những vòng tay ấm áp. Trong tâm trí của em, lúc nào anh cũng luôn hiện hữu. Và có những đêm, nỗi nhớ làm em không ngủ được. Em ngồi nhớ đến anh, nhớ về người mà em dành trọn tình yêu thiết tha, chân thành:
Những con sóng dạt dào trôi giữa biển khơi mênh mông, rộng lớn. Sóng trôi từ nam ra bắc, vào nam. Dù ở phương nào thì sóng cũng tìm đúng hướng để chạm vào bờ. Cũng giống như em, dù ở bất kì nơi đâu, trong lòng em cũng hướng về anh, chỉ một mình anh. Em nghĩ đến anh ở bất cứ thời gian nào, ở bất cứ nơi nào mà em đã từng đặt chân tới. Trái tim nhỏ bé của em dường như đã được vẽ sẵn một con đường, con đường ấy chẳng đâu khác mà sẽ dẫn đến nơi anh đang đứng. Nó sẽ tình yêu của em chạm vào trái tim anh để anh có thể cảm nhận được tất cả những tình cảm mãnh liệt và nỗi nhớ mà biết bao ngày qua vẫn tồn tại trong em:
Giữa biển khơi, giữa đại dương mênh mông, xanh thẳm, có biết bao con sóng được tạo nên từ gió. Gió tạo nên sóng nhưng chính gió cũng làm cho sóng tan nát, xê dịch vì sức gió quá mạnh. Nhưng dù bao khó khăn, dù mưa giông bão táp thì sóng vẫn vươn mình lên để vượt qua tất cả mà chạy đến bên bờ để vỗ về, để hòa nhập. Con sóng cũng như tình yêu của em. Chẳng có một tình yêu nào mà bằng phẳng và trải đầy hoa. Để đến được với nhau sẽ phải trải qua biết bao những thử thách. Và với em, tất cả những khó khăn ấy sẽ chẳng là gì. Nó không thể có đủ sức mạnh để ngăn cản em đến bên anh. Bằng tình yêu nồng nhiệt, em sẽ vượt qua tất cả. Khổ thơ như một lời hứa hẹn, một sự ngợi ca về tình yêu mãnh liệt có thể vượt qua mọi rào cản. Nó cũng như chính niềm tin của em dành cho tình yêu của mình. Em tin rằng tình yêu này sẽ chiến thắng tất cả.
Như vậy, với những vẫn thơ chân thực, nhẹ nhàng nhưng không kém phần mãnh liệt, ba khổ thơ giữa của bài thơ “Sóng”đã diễn tả được hết nỗi niềm của người phụ nữ đang đắm chìm trong những cảm xúc nồng nàn của tình yêu. Tình yêu mãi là thứ tình cảm thiêng liêng, đáng được trân trọng.
Bài làm mẫu 2Xuân Quỳnh là một trong những gương mặt thơ tiêu biểu thời chống Mỹ cứu nước. Thơ nữ sĩ là tiếng lòng của một người phụ nữ giàu tình cảm yêu thương, vừa hồn nhiên tươi tắn, vừa chân thành đằm thắm, vừa mãnh liệt đầy khao khát trong tình yêu, vừa luôn âu lo về sự phai tàn, đổ vỡ cùng những dự cảm bất trắc. “Sóng” là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh, là một minh chứng cho câu nói nổi tiếng của M.Gorki: “Thơ chính là tâm hồn”.
“Sóng” là bài thơ được viết năm 1967 nhân chuyến đi thực tế ở biển Diêm Điền. Khi đó Xuân Quỳnh đã nếm đủ ngọt ngào và cay đắng trong tình yêu, đã vun đắp và trải nghiệm sự tan vỡ. Thế nhưng tình yêu trong sáng ấy vẫn tràn đầy khao khát và khát vọng. Bài thơ được trích ở tập “Hoa dọc chiến hào” và được mệnh danh là một trong những vần thơ tươi xanh viết về thời kì lửa cháy của cuộc chiến tranh cách mạng. Đọc “Sóng”, có lẽ ấn tượng nhất trong lòng bạn đọc là ba khổ thơ về những sắc thái của sóng và cũng là những sắc thái đa dạng của tâm hồn người con gái trong tình yêu.
Tương tư là tâm bệnh của đôi lứa muôn đời. “Một trái tim đang nhớ là trái tim đang yêu”. Ca dao xưa có nỗi nhớ tha thiết giữa chàng với nàng:
Thơ ca suy cho cùng hấp dẫn ở những nét riêng. Nỗi nhớ da diết của người con gái trong tình yêu trở nên hấp dẫn suy cho cùng cũng ở nét riêng của nữ sĩ Xuân Quỳnh:
Thể thơ năm chữ, câu thơ ngắn, nhịp nhanh khiến âm hưởng thơ dào dạt, tựa âm hưởng nhịp sóng. Xuân Quỳnh khéo léo sử dụng phép nhân hóa để biến những con sóng trở thành chủ thể của một trái tim yêu nồng nàn. Điệp từ “sóng” xuất hiện liên tiếp trong ba dòng thơ vừa gợi hình những con sóng thương nhớ dâng lên dào dạt hết lớp này đến lớp khác trong trái tim yêu của người phụ nữ vừa gợi ra cái miên man sâu lắng của nỗi nhớ thương. Nỗi nhớ hiện diện trong sự tương phản của hình ảnh, không gian “lòng sâu – mặt nước”, của thời gian “ngày – đêm”. Đó là nỗi nhớ thăm thẳm lòng sâu, mênh mang mặt nước, dằng dặc đêm ngày.
Nữ sĩ mượn sóng để nói lời tình yêu nhưng sóng cũng không nói hết được chiều sâu và sự mãnh liệt của nỗi nhớ nên nhân vật trữ tình đã xuất hiện trực tiếp để bày tỏ lòng mình:
“Thức” là thao thức, có một nỗi nhớ không bao giờ ngủ yên trong trái tim thao thức Xuân Quỳnh. “Thức” còn là tiềm thức bao la, là nỗi nhớ vượt qua cả cõi thực và mộng. Như vậy, nỗi nhớ không chỉ xuyên qua ở tầng ý thức mà còn ăn sâu vào tiềm thức để ẩn hiện trong mỗi giấc mơ. Cái dào dạt sôi trào, cái da diết sâu lắng của nỗi nhớ thương đã khiến cảm xúc tràn bờ, tăng dung lượng từ bốn lên sáu dòng thơ, làm bật lên cái tận cùng của nỗi nhớ. Với những dòng thơ này, Xuân Quỳnh đã phá vỡ các giới hạn, dẫn đọc giả vào cõi vô biên của tâm hồn con người đang yêu.
Tình yêu luôn luôn phải đối diện với bao thử thách, trong đó có sự cách trở về thời gian và không gian. Vì thế, lứa đôi ngày xưa, với sức mạnh của tình yêu đã đinh ninh lời thề nguyền “trăm năm một chữ đồng đến xương”, lại quyết tâm vượt qua thử thách “tam tứ núi cũng trèo, ngũ lục sông cũng lội, thất bát nghèo cũng qua” để được hạnh phúc đời đời bên nhau. Còn các nhân vật trữ tình “em” trong thơ Xuân Quỳnh thì:
Nhà thơ đã đặt khái niệm phương anh cạnh phương Bắc, phương Nam để phân biệt hai không gian địa lý và tình yêu. Nếu trong địa lý có bốn phương tám hướng thì không gian tình yêu trong “em” chỉ có biết một phương duy nhất là “phương anh” mà thôi. Hai chữ rất đỗi yêu thương ấy đã khẳng định bản chất của tình yêu chân chính. Phép đối lập “ngược – xuôi” vừa gợi sự tất bật, lo toan, vừa thể hiện một tình yêu bền vững được thể hiện qua hành trình lên thác xuống ghềnh, xuôi Bắc ngược Nam. Đâu đó thấp thoáng bóng dáng người phụ nữ lấy điểm tựa là tình yêu để lo toan xuôi ngược trên những hành trình khác nhau của cuộc đời. Xuân Quỳnh đã viết lên những vần thơ ngũ ngôn có nhạc điệu ngân vang tha thiết, có hình tượng “sóng” và “em” rất đẹp cùng những ẩn dụ đầy tính nhân văn. Cấu trúc song hành kết hợp với các điệp ngữ đã tạo nên âm điệu triền miên, liên hồi như tiếng sóng vỗ xôn xao, bồi hồi trong lòng “em”.
Một nét độc đáo của bài thơ “sóng” là luôn có sự sóng đôi, song hành giữa hình tượng “sóng” và “em”. Song hành như thế để cộng hưởng, để ngân vang:
Ở bất cứ nơi nào, dù xa cách bao nhiêu, dẫu cuộc đời đảo điên đến đâu em cũng hướng duy nhất về phương anh mà thôi. Trở về bờ là quy luật tự nhiên của muôn ngàn con sóng, mãi hướng về anh là lẽ sống của trái tim em. Những từ “trăm ngàn”, “chẳng”, “dù” cùng với kết cấu quan hệ trái ngược giữa điều kiện và sự việc, Xuân Quỳnh đã bộc lộ niềm tin về bến đỗ của tình yêu đích thực, của hạnh phúc sau những trắc trở đắng cay. Trở về bờ, sóng ru mình trong yên ả, êm ả. Về bên anh, “em” đắm mình trong hạnh phúc ngọt ngào. Mặc dù, khi viết bài thơ này, Xuân Quỳnh đã nếm trải vị đắng trong tình yêu nhưng trái tim khao khát của nữ sĩ vẫn luôn dào dạt một niềm tin tưởng vào tình yêu chân chính.
Nỗi nhớ, sự thủy chung và niềm tin lớn lao của người con gái trong tình yêu ấy đã thể hiện cá tính đậm nét của Xuân Quỳnh trong thơ cũng như trong đời sống, mãnh liệt mà đằm thắm, táo bạo nhưng vẫn giàu nữ tính. Xuân Quỳnh bao giờ cũng dám sống thật với mình, sống thật với cá tính của mình. Vì vậy, tình yêu trong “Sóng” trở thành tiếng nói nhân bản của con người lúc bấy giờ.
Được viết bởi những tình cảm và tâm tư chân thật nhất của tác giả Xuân Quỳnh, khi đọc “Sóng” người trẻ như tìm được tiếng nói chung, như tìm được nơi để dốc bầu tâm sự. Hơn nửa thế thế kỷ trôi qua, bài thơ “Sóng” cùng những giá trị nhân văn cao cả của nó vẫn ghi một dấu ấn khó phai mờ trong lòng độc giả.
Bài làm mẫu 3Xuân Quỳnh là nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nổi bật trong thơ Xuân Quỳnh là chùm thơ viết về tình yêu. Trong đó bạn đọc yêu thơ chị chắc chắn sẽ biết đến bài thơ “Sóng”. Khi nói về nét truyền thống của người con gái trong tình yêu, khổ thơ năm, sáu và bảy đã làm tròn nhiệm vụ của mình:
Có tình yêu nào mà không phải trải qua nỗi nhớ. Dù ở không gian “dưới lòng sâu” hay “trên mặt nước”, dù “ngày” hay “đêm” thì con sóng vẫn nhớ “đến bờ” mà thao thức bồn chồn đến nỗi “không ngủ được”. Xuân Quỳnh đã lấy không gian và thời gian để đo đếm nỗi nhớ trong tình yêu. Nhưng nào ai có thể đong đếm hết được nỗi nhớ? Nếu sóng nhớ đến bờ thì em cũng nhớ đến anh. Nỗi nhớ ấy luôn thường trực trong tâm trí của “em”. Ngay đến trong giấc mơ cũng chẳng thể nào ngừng được. Nỗi nhớ đong đầy khắp cả không gian, thời gian và trong tiềm thức. Giống như ca dao đã từng diễn tả nỗi nhớ của những người yêu nhau:
Hay như trong bài thơ “Tương tư” của Nguyễn Bính:
Nỗi nhớ trong tình yêu đã không còn xa lạ gì, nhưng cách diễn tả của Xuân Quỳnh lại thật đặc biệt.
Bên cạnh những quan niệm mới mẻ trong tình yêu, Xuân Quỳnh vẫn giữ được vẻ đẹp truyền thống. Đó chính là tấm lòng thủy chung của người con gái khi yêu. Hình ảnh thơ đối lập “xuôi” và “ngược”, “phương Bắc”’ và “phương Nam” được nhà thơ sử dụng với dụng ý nghệ thuật sâu sắc. Thông thường, người ta thường nói “ngược về phương Bắc” và “xuôi về phương Nam”. Nhưng ở đây Xuân Quỳnh lại dùng cách nói ngược lại để thể hiện dụng ý nghệ thuật. Dù cuộc đời có luôn biến chuyển không ngừng, đôi ta phải trả qua nhiều sóng gió, vạn vật có luôn đổi thay. Thì đối với “em”, ở bất cứ “nơi nào” – cụm từ phiếm chỉ, không xác định rõ không gian, thời gian, vẫn hướng về “phương anh” – một phương duy nhất. Tấm lòng của “em” vẫn luôn nguyên vẹn dành cho “anh”, hướng đến “anh”.
Không chỉ vậy, Xuân Quỳnh còn diễn tả một niềm tin mãnh liệt trong tình yêu. Ở ngoài đại dương xa xôi đó, có trăm ngàn con sóng vỗ. Nhưng cuối cùng, con sóng nào cũng tìm được đến bến bờ của mình. Cũng giống như “em” và “anh, dù cuộc đời phải trải qua muôn ngàn sóng gió, có đôi lúc phải cách xa nhau. Thì đến cuối cùng, “em” và “anh” vẫn sẽ gặp lại nhau. Và tình cảm của đôi ta sẽ mãi mãi tồn tại:
Khổ thơ thứ bảy không chỉ là một lời khẳng định niềm tin cho tình yêu. Mà đó cũng là một lời an ủi, động viên những người đang yêu nhau, hãy có thêm sức mạnh để vượt qua muôn ngàn “cách trở”, tìm về với bến bờ hạnh phúc.
Đọc “Sóng” của Xuân Quỳnh, người đọc dường như thêm trân trọng tình yêu. Và dù người phụ nữ của Xuân Quỳnh trong tình yêu có mạnh mẽ đến đâu, họ vẫn giữ gìn được những vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ xưa.
Bài làm mẫu 4Thơ của Xuân Quỳnh là tiếng nói của những khát vọng hạnh phúc đời thường. Điều đó được thể hiện trong bài thơ “Sóng”, nhưng nổi bật nhất là ở khổ thơ thứ năm, sáu và bảy của bài thơ.
“Sóng” được sáng tác năm 1967 trong một chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền. Bài thơ thể hiện được những nét đẹp trong tâm hồn của người con gái khi yêu: vừa có nét hiện đại, lại vừa có nét truyền thống. Trong tình yêu, có lẽ thứ gia vị đặc biệt nhất chính là nỗi nhớ:
Cũng như các nhà thơ khác, Xuân Quỳnh cũng nói về nỗi nhớ nhưng với cách rất riêng của chị. Hình ảnh “sóng” xuất hiện đối lập giữa không gian “dưới lòng sâu” và “trên mặt nước” và thời gian “ngày” và “đêm”. Nhưng dù có ở nơi đâu, tại thời điểm nào, con sóng vẫn cồn cào nhớ đến bờ. Em cũng vậy, cũng nhớ đến “anh” mà ngay “cả trong mơ còn thức” – kì lạ thay sao trong giấc mơ lại vẫn có thể thức? Phải chăng nỗi nhớ xâm chiếm lấy tâm hồn người con gái để rồi ngay cả trong giấc ngủ, hình bóng của người yêu vẫn còn đó. Cũng giống như những lời thơ mà ông hoàng thơ tình Xuân Diệu từng bộc lộ:
Advertisement
Hay như trong ca dao xưa đã từng có những câu thật tha thiết:
(Ca dao)
Người con gái trong tình yêu, vẫn luôn giữ gìn được tấm lòng thủy chung son sắc của mình. Hồ Xuân Hương đã từng khẳng định điều đó trong bài thơ “Bánh trôi nước”:
Ở đây, Xuân Quỳnh cũng bộc lộ điều đó. Cũng giống như mọi con sóng, dù muôn vời cách trở xa xôi, đến cuối cùng vẫn tìm tới được bờ. Thì lòng em cũng như vậy:
Cuộc đời luôn ẩn chứa nhiều biến động, không ai có thể biết trước được những điều sẽ xảy ra trong tương lai. Nhưng dù có “xuôi về phương Bắc” hay “ngược về phương Nam” thì tấm lòng của em vẫn không thay đổi. Ở đây, nếu theo quy luật thông thường người ta sẽ nói “xuôi Nam, ngược Bắc”, nhưng Xuân Quỳnh lại chọn cách nói như trên để cho thấy rằng tình yêu không theo bất cứ một quy luật tự nhiên nào. Dẫu vậy, ở nơi nào, em cũng hướng đến một phương duy nhất, đó chính là “phương anh”. Trái tim thủy chung của em vẫn dành cho duy nhất một người – đó là anh.
Và nhờ có tấm lòng chung thủy đã giúp người con gái có được một niềm tin sâu sắc mãnh liệt cho tình yêu:
Giữa đại dương mênh mông vô tận, có hàng trăm hàng nghìn con sóng vỗ dào dạt. Và dẫu có muôn vời cách trở – dẫu biển có động, trời có làm giông bão thì đến cuối cùng con sóng vẫn vượt qua để tìm được đến bờ của bình yên. Cũng như “em” và “anh” vậy. Cuộc sống luôn thay đổi không ngừng, “Hôm nay yêu, mai có thể xa rồi” (Nói cùng anh, Xuân Quỳnh). Nhưng dẫu vậy, “em” vẫn một lòng tin tưởng vào tình yêu đó. Nó giống như nguồn sức mạnh giúp em vượt qua mọi khó khăn để tìm đến bên anh, tìm đến với hạnh phúc.
Tóm lại, qua những khổ thơ trên, “Sóng” của Xuân Quỳnh đã bộc lộ được vẻ đẹp của người con gái trong tình yêu. Những phẩm chất đó thật đáng quý và trân trọng.
Bài làm mẫu 5Tình yêu là những rung động, là những tình cảm hết sức thiêng liêng và mặc định ở con người chúng ta, ai đó đã nói rằng chỉ có khúc gỗ mới không có tình yêu mà thôi. Cũng từ điều ấy mà tình yêu trở thành một đề tài sáng tác yêu thích của biết bao nhà văn, nhà thơ và mỗi nhà văn, nhà thơ sẽ có cách tiếp cận tình yêu theo cách riêng của mình. Một trong những tác phẩm nổi bật của đề tài này là bài thơ “Sóng” của nữ thi sĩ Xuân Quỳnh và có lẽ hay nhất là ba khổ thơ năm, sáu và bảy của bài thơ.
Trong khổ thơ thứ năm của bài thơ “Sóng”, Xuân Quỳnh đã viết:
“Con sóng dưới lòng sâu” và “con sóng trên mặt nước” là hai cung bậc cảm xúc và biểu hiện phong phú nỗi nhớ của “em” dành cho “anh”. Cũng như con sóng dễ dàng nhận thấy khi xuất hiện trên mặt biển và không dễ để nhìn ra khi nằm trong lòng đại dương, “sóng dưới lòng sâu” là biểu hiện cho nỗi nhớ thầm trong trái tim còn “sóng trên mặt nước” là biểu hiện của nỗi nhớ được thể hiện ra ngoài. Nỗi nhớ “anh” ấy của “em” mới bồi hồi, khắc khoải và mãnh liệt đến nhường nào.
Đặc biệt hai câu thơ “Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong thơ còn thức” đã diễn tả một cách xúc động và chân thực nỗi lòng và tâm tư của người con gái đang yêu bằng một tình yêu trong sáng nhưng không kém phần mãnh liệt. “Em” nhớ “anh” cả “trong mơ” và “còn thức”, từ giấc ngủ say nồng cho tới đời thực. Câu thơ “Cả trong mơ còn thức” vừa diễn tả trạng thái khi trong mộng và khi trong đời thực của “em” vừa diễn tả cái thức ngay trong giấc mơ. Nghe thì có vẻ mâu thuẫn với nhau thế nhưng điều ấy đã thể hiện tình cảm chân thật, sâu sắc nhất trong tâm tư, cõi lòng của người con gái đang yêu.
Tiếp theo Xuân Quỳnh viết:
Con người chúng ta có thể đi về phương bắc hay phương nam tuỳ theo sở thích, nguyện vọng của bản thân mình, thế nhưng đối với “em” thì chỉ có “anh” là phương hướng duy nhất trong cuộc đời. Một lần nữa, nữ thi sĩ Xuân Quỳnh lại sử dụng kết cấu trùng điệp để tăng tiến nỗi nhớ người thương của mình. Nếu phương bắc và phương nam là hai phương hướng của tự nhiên, đất trời thì “phương anh” là phương hướng duy nhất trong trái tim “em”, khiến em luôn luôn hướng về. Tình yêu của nữ thi sĩ mới thành thật, cháy bỏng và da diết làm sao. Đối với một người con gái, những dòng thơ hay chính là những dòng bộc bạch của trái tim ấy có vẻ hơi táo bạo, nhưng chính sự táo bạo và đắm say tình yêu ấy của Xuân Quỳnh đã giúp nữ thi sĩ cất cánh trong tình yêu. Những dòng thơ trên của Xuân Quỳnh cũng chính là tâm tư, là tiếng nói tha thiết cháy bỏng của trái tim người con gái với nỗi nhớ người mình thương trong tình yêu.
Một tình yêu chân chính đối với nhiều người là một tình yêu vừa sôi nổi thiết tha,vừa mãnh liệt lại vừa trong sáng và thuỷ chung, và qua “Sóng”, Xuân Quỳnh đã khẳng định lại với người đọc một lần nữa tính đúng đắn của quan niệm ấy. Đối với Xuân Quỳnh, tình yêu không phải là một thứ tình cảm phù du, huyền ảo, lúc nào cũng ngập trong những bong bóng màu hường và những viễn cảnh lãng mạn, tốt đẹp mà tình yêu là một thứ tình cảm trần tục gắn với đời thường, do đó mà những trắc trở, khó khăn trong tình yêu là không thể nào tránh khỏi. Do vậy, một tình yêu đẹp là một tình yêu cần đến những phẩm chất thuỷ chung, son sắt, ý chí nghị lực và sự tin tưởng vào đối phương một cách sâu sắc đẻ cùng nhau vượt qua mọi khó khăn thử thách, đi đến bến bờ hạnh phúc trong tình yêu. Xuân Quỳnh đã thể hiện điều này qua những dòng thơ sau:
Từ một hiện tượng có thật và có phần nghịch lí trong tự nhiên là gió từ đất liền thổi ra nhưng những con sóng không hoàn toàn bị gió thổi ra xa ngoài khơi mà vẫn rì rào vỗ từng cơn sóng vào bờ, Xuân Quỳnh đã liên tưởng và dùng hình ảnh này để miêu tả tình yêu của bản thân mình. Đó là cho dù trong tình yêu có gặp nhiều gian nan, thử thách thế nào đi chăng nữa thì cũng không thể ngăn được tình yêu của nữ thi sĩ dành cho người thương của mình, bà sẽ cố gắng và kiên trì đến cùng để đi đến cái đích hạnh phúc trong tình yêu của mình, cũng như sóng “Con nào chẳng tới bờ/ Dù muôn vàn cách trở.”
Đã có rất nhiều nhà văn nhà thơ với rất nhiều tác phẩm viết về đề tài tình yêu muôn thuở, thế nhưng nữ thi sĩ Xuân Quỳnh vẫn rất xuất sắc khi ghi dấu ấn trong lòng thơ ca với tác phẩm “Sóng” của mình, bài thơ mà đã để lại trong lòng độc giả nhiều cung bậc cảm xúc và tình cảm dâng trào.
Phân tích khổ 5 6 7 bài Sóng Bài làm mẫu 1Tình yêu là đề tài muôn thuở trong thơ ca nhạc họa, nó làm con người ta say, biết nhớ thương hờn dỗi, biết lắng lo đau đớn. Thi nhân Việt Nam đã có không ít lần “trải chữ” để bày tỏ nỗi lòng khi trải qua trạng thái đặc biệt này, trong đó có Xuân Quỳnh với bài thơ Sóng. Tác phẩm được nữ thi sĩ viết vào năm 1967, khi cô có chuyến đi thực tế tại vùng biển Diêm Điền, tỉnh Thái Bình. Đứng trước những con sóng vô tận, không ngừng nối tiếp nhau của biển cả, Xuân Quỳnh cảm nhận được sự đồng điệu giữa từng đợt sóng trào với những cung bậc cảm xúc của người phụ nữ khi yêu, từ đó Sóng được ra đời, in trong “Hoa dọc chiến hào”, là tập thơ tiêu biểu của nữ thi sĩ trong những năm kháng chiến chống Mỹ. Có thể nói rằng tình cảm sâu đậm, đáng trân quý của người phụ nữ trong tình yêu được thể hiện rõ nét nhất trong khổ 5, 6, 7 của tác phẩm.
Có số lượng câu nhiều nhất trong bài là khổ thơ thứ 5, ở bốn câu thơ đầu người đọc được chứng kiến những con sóng lòng không ngừng dâng trào, kéo theo đó là bao nỗi nhớ thương âm ỉ, da diết:
“Con sóng” được lặp lại nhiều lần tạo nên một giọng thơ sôi nổi, quan trọng hơn nó là hình ảnh ẩn dụ cho nỗi nhớ đang không thôi cuộn trào trong lòng kẻ đang yêu. Bằng ngòi bút tinh tế của mình, Xuân Quỳnh đã khiến cho một hiện tượng rất đời thường trở nên có hồn, chất chứa đầy những suy tư trăn trở như một con người thật sự. Cặp từ đối lập giàu sức gợi hình gợi ảnh “dưới lòng sâu – trên mặt nước”, “ngày – đêm” không chỉ làm cho câu thơ được cân xứng hài hòa, tạo điệu thơ nhịp nhàng mà còn nhấn mạnh được nỗi nhớ bờ khôn nguôi của sóng. Dù ở bất cứ nơi đâu, ngầm lặng trong đại dương sâu thẳm hay hiện diện trên mặt biển bao la thì ở sóng luôn có một điều không bao giờ suy chuyển đó chính là nỗi nhớ bờ, mãi hướng mình về bờ như một chốn dừng chân thân thương, yên bình nhất. Nỗi nhớ ấy dường như bao trùm tất thảy không gian mênh mông của biển cả, trải dài ra theo sự chảy trôi vô tận của thời gian.
Sự “không ngủ được” trong câu thơ thứ tư làm ta nhớ đến những dòng chữ Minh Huệ từng viết:
Ở đây sự chủ động “không ngủ” của Bác là vì nặng lòng với quê hương, đất nước còn “ngày đêm không ngủ được” của Xuân Quỳnh chỉ mang tính tình cảm cá nhân tuy nhiên ấy là nỗi lòng chung của hàng triệu phụ nữ Việt khi phải chịu cảnh chia xa.
“Con sóng” của Xuân Quỳnh phải nói rằng “rất người” bởi nó biết “nhớ”, biết “không ngủ được” để rồi từ đây tác giả bày tỏ nỗi lòng của “em” một cách chính diện, không ngại ngần mấp mé:
Trong văn hóa của người phương Đông, đặc biệt là vào thời điểm lúc bấy giờ chuyện yêu đương nam nữ lúc nào cũng do người đàn ông chủ động bởi chúng ta có tư tưởng “trâu đi tìm cọc”, thế mà ở đây Xuân Quỳnh đã chủ động bày tỏ nỗi lòng của mình, trực tiếp khẳng định tình yêu, phá vỡ mọi rào cản. “Cọc” bây giờ không còn đợi “trâu” đi tìm mà tự dứt mình ra khỏi vị trí được ấn định để tìm trâu, chính tình yêu to lớn đã thúc đẩy cho sự táo bạo đầy dũng cảm này. Không chỉ nhớ anh khi thức, mà trong mơ em cũng luôn nghĩ về người, trong vô thức anh là bóng hình đặc biệt duy nhất mà em nhớ đến. Qua đây mới thấy rằng tình cảm mà người phụ nữ dành cho người mình yêu thật chân thành và mãnh liệt biết bao. Không vẽ nên những lời thề, lời ước hẹn xa xôi, Xuân Quỳnh để chảy trong thơ mình là những lời thủ thỉ hết sức tự nhiên, đằm thắm:
Biện pháp điệp cấu trúc kết hợp với cặp từ đối lập “xuôi – ngược”, “Bắc – Nam” đã bao quát được toàn bộ không gian rộng lớn, không chỉ trong tầm đất nước mà rộng hơn là vũ trụ. Từ “dẫu” được lặp lại nhằm nhấn mạnh sự phủ định, không quan tâm khoảng cách xa xôi cách trở giữa anh và em, em ở đây luôn nghĩ đến anh, một lòng hướng về và chờ đợi anh. Từ “nghĩ” được nhà thơ sử dụng bên cạnh việc mang nghĩa là suy nghĩ đơn thuần trong đầu óc con người thì còn có ý tô đậm ý chí, niềm tin và khát vọng của người con gái. Họ không còn rụt rè, chờ đợi sự chủ động từ đối phương, theo họ tình yêu luôn phải rõ ràng và bình đẳng, khi đã quyết định dành tình cảm cho một ai đó thì phải yêu cho ra yêu, yêu thật trọn vẹn, thật hết lòng. Vì mang tâm ý như vậy mà từng dòng thơ của Xuân Quỳnh khi vang lên không chỉ mang nét gì đó đáng yêu mà còn đầy rắn rỏi, quyết liệt, dứt khoát. Khổ thơ vừa là lời bày tỏ chân thành, vừa là sự hiện thân đẹp đẽ của lòng chung thủy nơi người con gái trong tình yêu. Yêu đương thường khiến người ta chìm vào ảo mộng nhưng với Xuân Quỳnh, nhà thơ nhìn nó bằng đôi mắt rất thực tế rằng:
Khó khăn là thứ luôn thường trực trong cuộc sống và trong tình yêu cũng vậy, nó chưa bao giờ để mình vắng mặt. Song nếu hiểu nhau, vì nhau, biết cùng nhau cố gắng vun đắp thì sẽ nhận được quả ngọt, đưa tình yêu cập được bến bờ hạnh phúc. Ở đây, “em” tin rằng khi có một tình yêu chân chính, đích thực kèm theo niềm tin mãnh liệt sẽ giúp chúng ta vượt qua bao khổ ải, bế tắc của cuộc đời. Như trước mắt em là biển, dưới chân em là sóng, sóng không ngừng vỗ vào bờ, trước khi đến được bến bờ bình yên phẳng lặng này những con sóng ấy đã phải vượt qua biết bao giông tố, gió mưa. “Dù muôn vàn cách trở” là thế nhưng con sóng nào rồi cũng đến bờ vì trong nó có đủ niềm tin và tình yêu to lớn. Đọc những câu thơ này của Xuân Quỳnh, ta thấy sự tương đồng với câu ca dao xưa:
Tình yêu sẽ cho con người ta sức mạnh để vượt qua những điều tưởng chừng như không thể, tình yêu của nhân vật “em” ở đây tuy chủ động nhưng vẫn giữ được sự nữ tính, cho người đọc cảm nhận được rằng nó luôn cháy và sẽ cháy mạnh hơn nữa để có thể tìm được một hạnh phúc vẹn tròn.
Qua khổ thơ 5 6 7 ta như được chảy trong mạch cảm xúc yêu đương của nhà thơ, đó là nỗi nhớ mãnh liệt, lòng chung thủy tuyệt đối và một sự tin tưởng khó về thay đổi trong tình yêu. Mượn hình tượng “sóng” tác giả đã bày tỏ nỗi lòng của người con gái khi yêu một cách thật chân thành, đẹp đẽ. Tình yêu trong Sóng tha thiết, nồng nàn và đầy khát vọng, có thể vượt lên trên mọi giới hạn, khó khăn, thử thách. Bài thơ nói chung và ba khổ thơ nói riêng đã để lại trong lòng người đọc những xúc cảm, ấn tượng sâu sắc. Tin chắc rằng dù thời gian có chảy trôi thì đến ngàn đời sau thì những con chữ này của Xuân Quỳnh vẫn mãi là một thanh âm tươi đẹp trong lòng người yêu thơ.
Bài làm mẫu 2Xuân Quỳnh là một nữ thi sĩ có phong cách nghệ thuật độc đáo. Những sáng tác của nhà thơ vừa mang nét mạnh mẽ, táo bạo lại vừa đằm thắm, thiết tha. Xuân Quỳnh đã đóng góp cho nền thơ Việt Nam rất nhiều tập thơ hay và ý nghĩa. Trong đó phải kể đến các tập thơ: Hoa dọc chiến hào (1968), Sân ga chiều em đi (1984),… Bài thơ Sóng là một trong những bài thơ hay và đặc sắc nhất.
Sóng được Xuân Quỳnh sáng tác vào năm 1967 trong những ngày kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra ác liệt. Bài thơ nhằm bày tỏ nỗi nhớ nhung và khát vọng trong tình yêu của người phụ nữ. Đó cũng là những tình cảm đẹp đẽ nhằm trao tặng cho người mình yêu. Điều đó được thể hiện rõ ràng nhất trong bai khổ thơ năm, sáu và bảy của bài thơ:
Ở khổ thơ này ta nhận thấy rõ được tình yêu luôn đi liền với nỗi nhớ, cái sâu sắc và bao la của nỗi nhớ luôn được tâm hồn đang yêu soi vào sóng để diễn tả. Tình yêu đó tràn đầy cả tầng sâu và bề rộng, chiếm lĩnh trọn cả ngày lẫn đêm.
“Sóng trên mặt nước” là biểu hiện nỗi nhớ khi thương, còn “con sóng trên mặt nước” là nỗi nhớ âm thầm lắng sâu trong cõi lòng và ngay cả lúc giận dỗi vẫn nhớ đến anh. Hai câu thơ “Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức” cho ta thấy rõ được tấm lòng đang yêu của cô gái, đó là thứ tình yêu trong sáng và mãnh liệt. “Em” nhớ đến “anh” ngay khi cả trong mơ, cho dù bàn chân có đang “xuôi về phương Bắc” hay “ngược về phương Nam” thì trái tim vẫn chỉ có một hướng duy nhất là “anh”. Có thể thấy đây là một nỗi nhớ da diết nhưng cũng không kém phần táo bạo, say đắm của khát vọng tình yêu. Đoạn thơ trên vừa là tiếng nói của người phụ nữ trong nỗi nhớ được viết với thủ pháp nghệ thuật của bàn tay nghệ sĩ tay hoa, cái nỗi nhớ ấy được thể hiện bằng hình tượng gián tiếp chưa đủ mà còn được biểu hiện trực tiếp bằng trái tim không thể kìm nén nỗi mà tự thốt thành lời.
Để nhấn mạnh thêm tính đa dạng, sâu thẳm của nỗi nhớ tác giả còn sử dụng biện pháp nhân hóa, nhân hóa “sóng” và “bờ” như một con người mà cụ thể ở đây là “em” và “anh”. Biện pháp đối lập “dưới lòng sâu” – “trên mặt nước” tăng thêm sự khoảng cách của nỗi nhớ giữa hai người đang yêu. Nỗi nhớ đó trở thành tình cảm thường trực trong “trái tim bé nhỏ”.
Và nhà thơ Hoàng Thị Minh Khanh cũng có viết:
Đến với khổ thơ thứ 7 chúng ta bắt gặp hình ảnh
Có một hiện tượng mà ta thấy đó là hiển nhiên nhưng cũng lại mang vẻ nghịch lý, gió thổi từ bờ ra thì sóng ở ngoài xa vẫn hướng vào đến bờ. Cái ý mà Xuân Quỳnh muốn nói ở đây là “em” cũng giống như sóng, cho dù gặp trở ngại bao nhiêu thì “em” cũng sẽ vượt qua để có thể đến với “anh”.
Trong thơ Chế Lan Viên cũng đã có viết:
Đúng thực, khi yêu cho dù có muôn vàn cách trở thì cũng trở lại được với nhau. Và ngay trong cả ca dao xưa cũng từng viết:
Tình yêu luôn gắn liền với với lòng tin, tin ở cuộc đời, tin ở người mình yêu và tin chính sức mạnh tình yêu. Đọc khổ thơ ta thấy thoáng một chút khắc khoải, lo âu về sự chảy trôi của thời gian, cái ngắn ngủi của cuộc đời mình và tình yêu của bản thân.
Văn Mẫu Lớp 12: Phân Tích Bài Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông 2 Dàn Ý &Amp; 17 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Dàn ý phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông
I. Mở bài
Tác giả: là một người nghệ sĩ có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, là nhà văn chuyên viết về bút kí, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều.
Trích trong bút kí cùng tên, hoàn thành tại Huế, tác phẩm thể hiện vẻ đẹp nên thơ của dòng sông Hương và tình yêu thương của tác giả đối với thiên nhiên đất nước.
II. Thân bài
Ý nghĩa nhan đề: nhấn mạnh đến vẻ đẹp huyền thoại của sông Hương, khát vọng của con người muốn đẹp cái đẹp về xây đắp cho xứ Huế, gợi lòng biết ơn đến những con người khai phá vùng đất ấy.
1. Hình tượng sông Hương
a. Dòng sông thiên nhiên
Ở thượng nguồn: “bản trường ca của rừng già”, “cô gái Di gan”, “người con gái của rừng già”, “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”
Từ thượng nguồn đến Huế: sông Hương như người con gái lần đầu đến với tình yêu một mặt rất e lệ, một mặt táo bạo chủ động.
Trong lòng Huế: như một người con gái đắm say tình tứ khi bên người mình yêu, người con gái tài hoa “tài nữ đánh đàn trong đêm khuya”.
Từ biệt Huế ra biển: như một người con gái lưu luyến, thủy chung từ biệt người yêu.
Nhận xét: tác giả chủ yếu cảm nhận vẻ đẹp sông Hương từ góc độ tình yêu khiến sông Hương hiện lên như một người con gái chung tình hết lòng vì tình yêu.
b. Dòng sông lịch sử
Sông Hương là một nhân chứng lịch sử của Huế, của đất nước: “soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ”, chứng kiến những mất mát đau thương của các cuộc khởi nghĩa thế kỉ XIX, …
Sông Hương như một công dân có ý thức trách nhiệm sâu sắc với đất nước: “biết hiến đời mình để làm nên chiến công”, …
Là một người con gái anh hùng: cùng gắn bó với Huế qua nhiều cuộc chiến đấu anh hùng trong thời kì trung đại, đến cách mạng tháng tám cũng có những chiến công vang dội, …
c. Dòng sông văn hóa
Sông Hương là “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”: toàn bộ âm nhạc cổ điển Huế, những bản đàn theo suốt cuộc đời Kiều và bản Tứ đại cảnh đều được sinh thành trên sông nước sông Hương.
Là người tài nữ đánh đàn trong đêm khuya: không bao giờ lặp lại trong cảm hứng của các thi nhân
Nhận xét: Sông Hương chính là người con gái phóng khoáng, chung thủy trong tình yêu,anh dũng kiên cường trong lịch sử, tài hoa sáng tạo trong âm nhạc, trong văn hóa, khiêm nhường trong đời thương. Là hiện thân cho vẻ đẹp người con gái Huế.
2. Hình tượng cái tôi tác giả
Quan sát dòng sông trên nhiều góc độ khác nhau, miêu tả dòng sông trên nhiều phương diện.
Là nhà văn có những liên tưởng, so sánh, độc đáo, lối viết tài hoa, uyên bác.
Là cái tôi nghệ sĩ có tình yêu tha thiết, say đắm với thiên nhiên Huế và đất nước.
III. Kết bài
Đánh giá nghệ thuật nổi bật: liên tưởng độc đáo, sử dụng từ ngữ đặc sắc, văn phong tao nhã, thành công trong nghệ thuật xây dựng hình tượng sông Hương.
Qua tác phẩm ta cảm nhận được niềm tự hào tha thiết của tác giả với vẻ đẹp thiên nhiên xứ Huế cũng như đất nước. Nhà văn có lối hành văn mê đắm, súc tích
Sơ đồ tư duy Ai đã đặt tên cho dòng sông Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông học sinh giỏi – Mẫu 1Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trí thức yêu nước, có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều hình vực. Ông chuyên về thể loại bút kí. Nét đặc sắc trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức sâu rộng về triết học, văn hoá, lịch sử, địa lí, lối hành văn hướng nội súc tích, mê đắm và tài hoa. Ai đã đặt tên cho dòng sông? là bài bút kí xuất sắc, viết tại Huế 1981, in trong tập sách cùng tên của ông.
Tác phẩm đã miêu tả cảnh quan thiên nhiên sông Hương, sự gắn bó của con sông với lịch sử và văn hoá của xứ Huế, của đất nước. Qua đó nhà văn bộc lộ niềm tự hào tha thiết, sâu lắng dành cho dòng sông Hương, cho xứ Huế thân yêu và cũng là cho đất nước.
Sông Hương nhìn từ cội nguồn là dòng chảy có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn. Trong mối quan hệ đặc biệt này, sông Hương tựa như một bản trường ca của rừng già với nhiều tiết tấu hùng tráng, dữ dội: khi rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc mãnh liệt vượt qua ghềnh thác, khi cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực sâu, lúc dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng.
Với cái nhìn được nhân hoá, sông Hương tựa cô gái Digan phóng khoáng và man dại với một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Theo tác giả, nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành mà không chú ý tìm hiểu sông Hương từ nguồn cội, người ta khó mà hiểu hết các vẻ đẹp trong phần tâm hồn sâu thẳm của dòng sông mà chính nó đã không muốn bộc lộ.
Như vậy, ở thượng nguồn, sông Hương có thể chất mạnh, toát lên vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt, hoang dại, đầy cá tính. Sông Hương khi chảy về kinh thành Huế lại mang nhiều vẻ đẹp đa dạng, gắn bó với đặc trưng văn hoá, không gian kinh thành Huế. Trước khi trở thành người tình dịu dàng và chung thuỷ của cố đô, sông Hương đã trải qua một hành trình đầy gian truân và nhiều thử thách. Trong cái nhìn tinh tế và lãng mạn của tác giả, toàn bộ thuỷ trình của dòng sông tựa như một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của người con gái trong một câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích.
Đoạn tả sông Hương chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố bộc lộ nét lịch lãm và tài hoa trong lối hành văn của tác giả. Độc giả khó cưỡng một sức hấp dẫn toát lên từ hàng loạt động từ diễn tả cái dòng chảy sống động qua những địa danh khác nhau của xứ Huế.
Giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại, sông Hương là “cô gái đẹp ngủ mơ màng”; nhưng ngay sau khi ra khỏi vùng núi, thì cũng như nàng tiên được đánh thức, sông Hương bỗng bừng lên sức trẻ và niềm khao khát của tuổi thanh xuân trong sự “chuyển dòng liên tục”, “rồi vòng những khúc quanh đột ngột”, vẽ một hình cung thật tròn, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, rồi “vượt qua”, “đi giữa âm vang”, “trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”…
Vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng, sông Hương có lúc “mềm như tấm lụa” khi qua Vọng Cảnh. Tam Thai, Lựu Bảo; có khi ánh lên “những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” lúc qua những dãy đồi núi phía tây nam thành phố và mang vẻ đẹp trầm mặc khi qua bao lăng tẩm, đền đài mang niềm kiêu hãnh âm u được phong kín trong những rừng thông u tịch cho đến lúc bừng sáng, tươi tắn và trẻ trung khi gặp “tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”…
Hai bút pháp kể và tả được kết hợp nhuần nhuyễn và tài hoa trong đoạn văn đã làm nổi bật một sông Hương đẹp bởi phối cảnh kì thú giữa nó với thiên nhiên xứ Huế phong phú mà hài hoà. Sông Hương khi chảy trong Huế, như đã tìm thấy chính mình khi gặp thành phố thân yêu, sông Hương “vui tươi hẳn lên giữa những bến bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”, dòng sông “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc”, rồi “uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến” khiến dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói là của tình yêu”.
Nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình, sông Hương cũng giống sông Seine của Pari, sông Đa Nuýp của Budapest,… nhưng trong cách biểu đạt tài hoa của tác giả, sông Hương được cảm nhận với nhiều góc độ: nhìn bằng con mắt của hội hoạ, sông Hương và những chi lưu của nó tạo những đường nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹp cổ kính của cố đô; qua cách cảm nhận âm nhạc, sông Hương “đẹp như điệu Slow” chậm rãi, sâu lắng, trữ tình và với cái nhìn đắm say của một trái tim đa tình, sông Hương là người tình dịu dàng và chung thuỷ.
Điều này được diễn tả trong một phát hiện thú vị của tác giả: “Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ.
Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bảo Vinh xưa cổ”. Cũng theo tác giả khúc quanh thật bất ngờ đó, tựa như một “nỗi vương vấn”, và dường như còn có cả “một chút lẳng lơ kín đáo” của tình yêu…
Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc lại mang vẻ đẹp của một bản hùng ca ghi dấu những thế kỉ vinh quang từ thuở còn là một dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng, thuở nó mang tên là Linh Giang (dòng sông thiêng) trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, là “dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại”,
“nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ” vào thế kỉ mười tám; “nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ mười chín với máu của những cuộc khởi nghĩa”, nó chứng kiến thời đại mới với cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 và bao chiến công rừng chuyển qua hai cuộc chiến tranh vệ quốc sau này…
Sông Hương với cuộc đời và thi ca là một nhân chứng nhẫn nại và kiên cường qua những thăng trầm của cuộc đời. Tuy nhiên, điều làm nên vẻ đẹp giản dị mà khác thường của dòng sông là ở chỗ: khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến mình làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước. Có lẽ chính điều đó đã làm cho sông Hương không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ.
Có thể nói, nét đặc sắc làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của đoạn văn là tình yêu say đắm với dòng sông được thể hiện bằng tài năng của một cây bút giàu trí tuệ, tổng hợp từ một vốn hiểu biết sâu rộng về văn hoá, lịch sử, địa lí và văn chương cùng một văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa.
Trích đoạn bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông đã gợi ra vẻ đẹp của Huế, của tâm hồn người Huế qua sự quan sát sắc sảo của Hoàng Phủ Ngọc Tường về dòng sông Hương. Ông xứng đáng là một thi sĩ của thiên nhiên, một cuốn từ điển sống về Huế, một cây bút giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Bài kí góp phần bồi dưỡng tình yêu, niềm tự hào đối với dòng sông và cũng là với quê hương đất nước.
Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông ngắn gọn – Mẫu 2Hoàng Phủ Ngọc Tường là một văn, một nhà trí thức yêu nước, có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều hình vực. Ông cũng là một nghệ sĩ đa tài với nhiều thể loại, và đặc biệt thành công về thể loại bút kí. Nét đặc sắc, độc đáo trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường đó chính là sự kết hợp nhuần nhuyễn, tài hoa giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều, có được từ việc tổng hợp vốn kiến thức sâu rộng về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí, cùng lối hành văn hướng nội súc tích, tài hoa và mê đắm. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là bài bút kí xuất sắc trong sự nghiệp sáng tác của ông được viết tại Huế 1981.
Tác phẩm đã tái hiện lại vẻ đẹp của cảnh quan thiên nhiên sông Hương, thể hiện sự gắn bó của con sông với chiều dài lịch sử và văn hoá của xứ Huế, của đất nước. Qua đó nhà văn bày tỏ niềm tự hào tha thiết dành cho dòng sông Hương, cho xứ Huế thân thương và cũng là cho đất nước.
Sông Hương nhìn từ hướng thượng nguồn là dòng chảy có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn. Trong mối quan hệ này, sông Hương tựa như một bản trường ca vang dội của rừng già với nhiều tiết tấu hùng tráng, dữ dội, hào hùng: khi thì rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc lại mãnh liệt vượt qua các ghềnh thác, khi thì cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực sâu, có lúc lại dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ rực của hoa đỗ quyên rừng.
Với biện pháp nhân hoá, sông Hương được ví như cô gái Digan phóng khoáng và man dại với một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn thích tự do và trong sáng. Theo nhà văn, nếu chỉ mải mê ngắm nhìn khuôn mặt kinh thành mà không chú ý tìm hiểu về nguồn cội của sông Hương, người ta sẽ khó mà hiểu hết được các vẻ đẹp trong phần tâm hồn sâu thẳm của dòng sông mà chính nó không muốn bộc lộ ra.
Như vậy, ở vùng thượng nguồn, sông Hương có thể chất mạnh mẽ, toát lên vẻ đẹp của một sức sống tràn đầy, mãnh liệt, hoang dại, đầy cá tính. Khi sông Hương chảy về kinh thành Huế lại mang những vẻ đẹp khác đa dạng, nó gắn bó với đặc trưng văn hoá, không gian kinh thành Huế. Trước khi trở thành người tình dịu dàng, thắm thiết và chung thuỷ của cố đô, thì sông Hương đã trải qua một hành trình đầy gian truân và nhiều thử thách. Trong cái nhìn tinh tế và lãng mạn, tài hoa của tác giả, toàn bộ thuỷ trình của dòng sông Hương tựa như một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân của người con gái trong một câu chuyện tình yêu mang đậm màu cổ tích.
Đoạn văn miêu tả sông Hương khi nó chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố bộc lộ ra cái nét lịch lãm và tài hoa trong lối hành văn của tác giả. Người đọc sẽ khó cưỡng lại sức hấp dẫn toát lên từ hàng loạt những động từ diễn tả cái dòng chảy sống động đầy thơ mộng qua những địa danh khác nhau của xứ Huế.
Giữa cánh đồng Châu Hoá với đầy hoa dại, sông Hương như một “cô gái đẹp ngủ mơ màng”; nhưng ngay sau khi ra khỏi vùng núi ấy thì cũng như công chúa được đánh thức bởi nụ hôn của hoàng tử, dòng sông Hương bỗng bừng lên sức trẻ và niềm khao khát mãnh liệt của tuổi thanh xuân, được thể hiện qua sự “chuyển dòng liên tục”, “rồi vòng những khúc quanh đột ngột”, vẽ lên một hình cung thật tròn, ôm trọn lấy chân đồi Thiên Mụ, rồi lại “vượt qua”, “đi giữa âm vang”, cuối cùng là “trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”…
Vừa mạnh mẽ lại vừa dịu dàng, sông Hương có lúc thì “mềm như tấm lụa” khi đi qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo; có khi thì ánh lên “những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” khi nó đi qua những dãy đồi núi phía tây nam của thành phố và lại mang vẻ đẹp trầm mặc, sâu sắc khi qua bao lăng tẩm, đền đài của cố đô mang niềm kiêu hãnh âm u được phong kín trong những rừng thông u tịch cho đến lúc lại bừng sáng, tươi tắn và trẻ trung, vui tươi khi gặp được “tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”…
Hai bút pháp kể và tả xen kẽ được kết hợp nhuần nhuyễn hài hòa trong đoạn văn trên đã làm nổi bật một dòng sông Hương đẹp tuyệt trần bởi bối cảnh kì thú giữa nó với thiên nhiên xứ Huế mộng mơ, phong phú mà hài hoà. Sông Hương khi chảy trong kinh thành Huế, nó như đã tìm thấy chính mình khi gặp lại thành phố thân yêu, sông Hương trở lên “vui tươi hẳn lên giữa những bến bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”, dòng sông ấy “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo phía tây nam – đông bắc”, rồi lại “uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến” khiến cho dòng sông mềm mại hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói là của tình yêu”.
Nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý, thân thương của mình, sông Hương cũng giống như sông Seine của Pari hay sông Đa Nuýp của Budapest,… nhưng trong cách biểu đạt tài hoa, uyên bác của tác giả, sông Hương được cảm nhận từ nhiều góc độ khác nhau: nó được nhìn bằng con mắt của hội hoạ, sông Hương và những chi lưu của nó đã tạo lên những đường nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹp cổ kính, trầm mặc của cố đô; qua cách cảm nhận âm nhạc thì sông Hương lại “đẹp như điệu Slow” chậm rãi, sâu lắng, suy tư, đầy trữ tình và với cái nhìn đắm say của một trái tim đa tình thì sông Hương lại là người tình dịu dàng và chung thuỷ.
Điều này được thể hiện trong một phát hiện thú vị của tác giả qua đoạn văn: “Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ.
Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bảo Vinh xưa cổ”. Cũng theo nhà văn khúc quanh thật bất ngờ đó, như thể hiện một “nỗi vương vấn, trăn trở”, và dường như nó còn có cả “một chút lẳng lơ kín đáo” của tình yêu vậy.
Sông Hương trong mối quan hệ khăng khít với lịch sử dân tộc lại mang một vẻ đẹp của bản hùng ca ghi dấu những dấu mốc lịch sử của thế kỉ vinh quang từ thuở còn là một dòng sông ở tận biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng, thuở nó còn mang tên là Linh Giang (hay dòng sông thiêng) trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, và là “dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt để bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại ”, nó đã “soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ” vào thế XVIII; nó cũng đã “sống hết lịch sử đầy bi tráng của thế kỉ mười chín với máu của những cuộc khởi nghĩa”, nó chứng kiến thời đại mới với sự thành công vang dội của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 và bao cuộc chiến công rừng chuyển qua hai cuộc chiến tranh vệ quốc về sau này.
Sông Hương với cuộc đời và thi ca như là một nhân chứng đầy tính nhẫn nại và kiên cường qua những thăng trầm, những biến đổi của cuộc đời. Tuy nhiên, cái điều làm nên vẻ đẹp giản dị mà khác thường ấy của dòng sông đó là ở chỗ: khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến dâng bản thân mình để làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống đời thường, làm một người con gái dịu dàng, đằm thắm của đất nước. Có lẽ chính điều đó đã làm cho dòng sông Hương thơ mộng này không bao giờ tự lặp lại mình trong nguồn cảm hứng của các nghệ sĩ.
Có thể nói, nét đặc sắc nhất làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của đoạn văn đó chính là tình yêu say đắm, tha thiết với dòng sông được thể hiện bằng tài năng vượt bậc của một cây bút giàu trí tuệ, được tổng hợp từ một vốn hiểu biết sâu rộng về các lĩnh vực từ văn hoá, lịch sử, địa lí tới văn chương, cùng với một văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và đầy tài hoa.
Trích đoạn bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã gợi lên vẻ đẹp của xứ Huế, của tâm hồn người dân nơi đây qua sự quan sát sắc sảo, tinh tế của nhà văn về dòng sông Hương. Ông quả xứng đáng là một thi sĩ của thiên nhiên, một cuốn từ điển sống về cố đô Huế, một cây bút tài năng giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Bài kí đã góp phần bồi dưỡng tình yêu, niềm tự hào to lớn đối với dòng sông Hương và cũng là với quê hương đất nước.
Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông – Mẫu 3Với vốn kiến thức phong phú về văn hóa, lịch sử, địa lí, triết học, những trang viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường luôn có sự kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình cùng cách dùng từ ngữ, lối hành văn súc tích, hướng nội, mê đắm và tài hoa. Bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” được viết tại Huế vào năm 1981 là một trong số những tùy bút xuất sắc nhất, tiêu biểu cho phong cách văn chương của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Trước hết, nhà văn đã dùng vốn hiểu biết phong phú và sâu sắc của mình để tái hiện một cách chân thực và rõ nét thủy trình của sông Hương với những vẻ đẹp khác nhau từ thượng nguồn cho đến khi nằm trọn mình trong lòng của thành phố Huế mộng mơ. Ở thượng nguồn, vẻ đẹp của sông Hương đã được tác giả khắc họa bằng những hình ảnh so sánh độc đáo, thú vị. Sông Hương được ví như “một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”. Với việc sử dụng câu văn dài, được tách thành nhiều vế cùng các động từ mạnh “rầm rộ’, “cuộn xoáy” và những hình ảnh độc đáo, tác giả đã làm hiện lên một sông Hương với vẻ đẹp mãnh liệt, hùng tráng, nhưng ở dòng sông ấy ta còn thấy vẻ đẹp “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Thêm vào đó, ở thượng nguồn, sông Hương còn được so sánh với “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại” – một vẻ đẹp giản dị và trong sáng. Cuối cùng, sông Hương ở thượng nguồn giống như “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. Dường như, sông Hương giống như một cái nôi, giống như một người mẹ đã sinh ra và nuôi dưỡng những nét đẹp văn hóa ngàn đời của thành phố Huế. Có thể thấy, bằng hàng loạt những hình ảnh so sánh độc đáo, sông Hương ở thượng nguồn như một sinh thể đa tính cách, có vẻ đẹp hùng tráng mãnh liệt nhưng cũng có vẻ đẹp dịu dàng, nữ tính.
Nếu ở thượng nguồn, sông Hương là một sinh thể đa tính cách thì khi về đến ngoại vi của thành phố Huế tác giả đã cho người đọc thấy được vẻ đẹp dịu dàng, trầm mặc của nó. Bằng cặp mắt quan sát đầy tinh tế của mình, ở ngoại vi thành phố Huế, sông Hương hiện lên như “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” – một người con gái đẹp với những điều cong mềm mại bởi dòng sông ấy đang chuyển dòng một cách liên tục và đang uốn mình để khoe, để phô diễn những đường cong duyên dáng, mềm mại của mình. Thêm vào đó, sông Hương còn hiện lên là một người con gái dịu dàng, duyên dáng và luôn biết cách tự làm mới bản thân mình bằng cách thay đổi liên tục sắc áo của chính mình “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Ở nơi đây, sông Hương còn mang trong mình vẻ đẹp trầm mặc, “như triết lí, như cổ thi” bởi nó ẩn mình trong “những rừng thông u tịch” và “lăng tẩm đồ sộ”.
Sông Hương thơ mộng giữa thành phố Huế
Nếu sông Hương ở ngoại vi thành phố hiện lên với vẻ đẹp của một người con gái đẹp – mềm mại, dịu dàng nhưng đồng thời cũng mang vẻ đẹp trầm mặc thì sông Hương khi đã nằm trọn trong lòng thành phố Huế lại mang nét đẹp riêng. Trong lòng thành phố, sông Hương giống như “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Đặc biệt, với vốn hiểu biết phong phú và sâu rộng của mình, ông đã đi so sánh sông Hương với những dòng sông khác trên thế giới để làm rõ nét khác biệt của sông Hương. Trước hết, tác giả đã so sánh sông Hương với “sông Xen của Pari, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét” để thấy điểm giống nhau giữa chúng là nằm trọn trong lòng thành phố nhưng đồng thời qua đó cũng thấy được nét khác biệt của sông Hương chính ở chỗ sông Hương vẫn giữ được cho Huế vẻ đẹp của một đô thị, một thành phố cổ với những cây đa, cây cừa cổ thụ, với những ánh lửa thuyền chài lập lòe trong đêm… Thêm vào đó, tác giả đã so sánh sông Hương với sông Lê-nin-grat của Nga để thêm một lần nữa thấy sự khác biệt của sông Hương. Nếu Lê-nin-grat chảy nhanh, lưu tốc mạnh thì sông Hương lại hoàn toàn khác, nó có điệu chảy lặng lờ, chậm rãi, “cơ hồ chỉ còn là mặt hồ yên tĩnh”. Nét chậm rãi, lưu tốc chậm ấy của sông Hương có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm ngàn những cánh hoa đăng trôi nhẹ nhàng, “như vấn vương của một nỗi lòng”. Sông Hương ở trong lòng thành phố Huế như bản nhạc trữ tình nhẹ nhàng, chậm rãi dành riêng cho mảnh đất cố đô. Cùng với đó, ở nơi đây, sông Hương còn hiện lên như “một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya” – một người chơi đàn rất giỏi và độc đáo.
Có thể thấy, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã miêu tả lại một cách chi tiết, sinh động và độc đáo về thủy trình của sông Hương từ thượng nguồn đến trước khi ra biển. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, bằng tất cả tình yêu, sự say đắm với sông Hương, với Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết về sông Hương ở vẻ đẹp của lịch sử và thi ca. Trước hết, sông Hương hiện lên là dòng sông của lịch sử. Nhìn lại suốt cả chặng đường dài của lịch sử dân tộc, sông Hương đã góp sức mình làm nên những trang sử hào hùng của dân tộc. Thời kì dựng nước, nó là dòng sông biên thùy xa xôi, thời kì trung đại, gắn với tên tuổi của anh hùng Nguyễn Trãi. Và để rồi trong suốt thế kỉ XIX hay trong cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 và cả mùa xuân năm 1968, sông Hương đã ghi dấu lại những chiến công vẻ vang của dân tộc. Thêm vào đó, sông Hương còn là dòng sông của cuộc đời. Nó như một người con gái dịu dàng của đất nước. Người con gái ấy khi nghe lời gọi, đã “sẵn sàng hiến cuộc đời mình để làm một chiến công” và để rồi khi trở về với cuộc sống đời thường, sông Hương lại là một người con gái dịu dàng. Và cuối cùng, sông Hương chính là dòng sông của thi ca, là một dòng sông đẹp và là nguồn cảm hứng của biết bao nhà thơ, nhà văn. Dòng sông ấy không bao giờ lặp lại mình trong các sáng tác của các nghệ sĩ, mỗi nhà thơ lại có những cảm nhận riêng về nó. Ta có thể bắt gặp những sông Hương với vẻ đẹp khác nhau trong thơ của Tản Đà, Cao Bá Quát, Bà huyện Thanh Quan…
Tóm lại, bằng vốn hiểu biết hướng nội, văn phong mê đắm, tài hoa cùng tình yêu say đắm với sông Hương, với xứ Huế mộng mơ, Hoàng Phủ Ngọc Tường qua bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” đã thể hiện một cách hấp dẫn, sinh động vẻ đẹp của sông Hương.
Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông – Mẫu 4“Ai đã đặt tên cho dòng sông” là bài bút kí xuất sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường khi viết về dòng sông Hương trữ tĩnh, thơ mộng của Huế. Mạch cảm xúc của bài kí chính là vẻ đẹp đặc trưng, riêng biệt của con sông duy nhất chảy qua dòng thành phố Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã rất tài tình khi lột tả được hết vẻ đẹp và linh hồn của dòng sông mang đặc trưng của Huế này.
Có lẽ vì đặc trưng của thể loại bút kí nên lời văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường rất phóng khoáng, điêu luyện, nhẹ nhàng và mềm mại. Với một tấm lòng yêu Huế, yêu cảnh sắc thiên nhiên, yêu sông Hương nên Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khoác lên bài kí một màu sắc, âm hưởng riêng có của Huế.
Dòng sông Hương được tác giả ngợi ca “dòng sông duy nhất chảy qua thành phố Huế”, dòng sông vắt mình qua thành phố, chứng kiến bao nhiêu đổi thay của mảnh đất này. Cái nhìn đầu tiên của tác giả khi viết về sông Hương là cái nhìn từ vùng thượng nguồn. Vẻ đẹp của dòng sông lúc này khiến tác giả liên tưởng đến cô gái Digan phóng khoáng, mê dại, đầy sức hút.
Qua ngòi bút của tác giả, sông Hương hiện lên thật kì vĩ “sông Hương tựa như một bản trường ca của rừng già, khi rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc mãnh liệt vượt qua nhiều ghềnh thác, khi cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực sâu, lúc dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu hoa đỗ quyên rừng”. Chỉ với một vài chi tiết mà Hoàng Phủ Ngọc Tường đã lột tả được vẻ đẹp lúc mãnh liệt, lúc dịu êm của sông Hương. Có lẽ đây chính là đặc trưng của sông Hương khi ở thượng nguồn, hứng chịu nhiều biến đổi của thời tiết.
Thật độc đáo khi dưới con mắt của tác giả, sông Hương tựa như “Cô gái di gan phóng khoáng và man dại với bản lĩnh gan dạ, tâm hồn tự do và trong sáng”. Có lẽ đây là phép nhân hóa đầy ẩn ý nhằm gợi lên nét đẹp hoang sơ nhưng hấp dẫn của con sông này. Như vậy có thể thấy được qua ngòi bút phóng khoáng của tác giả, sông Hương vùng thượng nguồn toát lên vẻ đẹp kì bí, hùng vĩ và đầy cá tính.
Tuy nhiên đây mới chỉ là ở thượng nguồn, cùng Hoàng Phủ Ngọc Tường khám phá vẻ đẹp của dòng sông này khi chảy về thành phố Huế. Có lẽ người đọc sẽ bất ngờ với vẻ đẹp dịu dàng, mềm mại và uyển chuyển của nó. Tác giả đã ví sông Hương như “người tình dịu dàng và chung thủy của cố đô”. Không phải vô duyên vô cớ mà tác giả lại đi ví von so sánh đầy tính nghệ thuật như vậy.
Sông Hương khi chảy về thành phố có sức hấp dẫn tuyệt vời đối với người đọc. Ở đây chúng ta nhận ra một lối viết nhẹ nhàng, tinh tế, rất mực tài hoa của tác giả. Ông vẽ lên vẻ đẹp của sông Hương không chỉ bằng ngôn ngữ mà còn bằng cả trái tim đầy tình yêu thương. Giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, sông Hương như “cô gái đẹp ngủ mơ màng” – một vẻ đẹp đầy màu sắc của câu chuyện cổ tích tuyệt đẹp. Và sông Hương bỗng “chuyển dòng liên tục” “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”, “trôi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”. Một sự diễn tả quá trữ tình, quá độc đáo khiến người đọc khó cưỡng lại được vẻ đẹp tuyệt vời này.
Sông Hương vừa mềm mại, vừa dịu dàng “mềm như tấm lụa”, có khi ánh lên những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Sự chuyển đổi màu sắc theo mùa, theo thời gian như thế này đã làm nên một nét đặc trưng cho những ai muốn ngắm nhìn sông hương thật lâu.
Hoàng Phủ Ngọc Tường tả sông Hương như vẽ, vẽ lên một bức tranh hoàn mĩ và tuyệt vời nhất về dòng sông huyền thoại này. Sông Hương tạo nên nét đẹp của đất cố đô Huế, ẩn mình trong trầm tích của nét văn hóa hàng nghìn năm lịch sử. Thú vị nhất là đoạn sông Hương chảy trong lòng Huế, tác giả cứ ngỡ rằng sông Hương tìm thấy chính mình khi gặp thành phố thân yêu nên tươi vui hẳn lên.
Vẻ đẹp của dòng sông này được cảm nhận dưới nhiều góc độ khác nhau. Nhìn bằng con mắt của hội họa, sông Hương và những chi lưu của nó tạo những đường nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹp cổ kính của cố đô; qua cách cảm nhận âm nhạc, sông Hương như điệu slow chậm rãi sâu lắng, trữ tình…Một vẻ đẹp khiến người khác phải ngỡ ngàng và đắm say chẳng thể dứt ra.
Sông Hương còn là chứng nhân lịch sử, là “người” chứng kiến sự đổi thay của cố đô Huế từng ngày. Trong sách Dư địa chí “dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của tổ quốc đại việt qua những thế kỉ trung đại, vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của anh hùng Nguyễn Huệ…”
Có thể nói rằng để cảm nhận sông Hương với nhiều góc độ, nhiều vẻ đẹp khác nhau, Hoàng Phủ Ngọc Tường phải có trái tim nhạy cảm, yêu và thương tha thiết dòng sông thơ mộng này. Một lối viết giản dị, nhẹ nhàng nhưng đầy lôi cuốn đã khiến độc giả không thể để dứt mạch cảm xúc. Tác giả đã phát huy được đặc trưng của thể loại bút kí đầy sắc bén và tình cảm này.
“Ai đã đặt tên cho dòng sông” thực sự là bài bút kí độc đáo. Sông Hương hiện lên với tất cả vẻ đẹp mà nó mang.
Phân tích bài Ai đã đặt tên cho dòng sông – Mẫu 5Trước hết, tác giả dẫn ta trở về với khúc sông thượng nguồn để khám phá. Trước khi về với vùng châu thổ êm đềm, sông Hương có nét đẹp hoang sơ và dữ dội, hùng tráng. Nhà văn đã ví dòng sông như một cô gái Di-gan “phóng khoáng và man dại”. Bởi rừng già ở thượng nguồn đã hun đúc nên bản lĩnh gan dạ cùng tâm hồn tự do, trong sáng cho dòng sông Hương
Tới khi ra khỏi rừng già, sông Hương đã thu lại vẻ dữ dội mà chuyển mình dịu dàng, trí tuệ, mang vẻ đẹp kín đáo, lắng sâu của người con gái. Vẻ đẹp sông Hương hiện lên với hai nét tính cách: vừa phóng khoáng, man dại, vừa dịu dàng, thơ mộng, đắm say
Ra khỏi rừng, sông Hương như bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài để hiện lên vóc dáng và sức sống mới. Nó “chuyển dòng liên tục”, “uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Sông Hương chảy trôi qua ngã ba Tuần, điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, bãi đất Nguyệt Biều, Lương Quán rồi chuyển hướng về phía Đông Bắc, ôm lấy chân chùa Thiên Mụ và xuôi dần về Huế. Tất cả những nơi nó chảy qua đã nhuốm một vẻ đẹp “trầm mặc như triết lí, như cổ thi” cho chính dòng sông. Và kéo dài bằng tiếng chuông chùa Thiên Mụ vang ngân
Đến thành phố, sông Hương như tìm thấy chính mình. Nó “vui tươi” hẳn lên giữa những biển bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long. Ở đoạn văn này, tác giả liên tưởng sông Hương như người con xa xứ háo hức được trở lại mảnh đất quê hương để ngắm nhìn xứ Huế từ xa và nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in trên bầu trời nhỏ nhắn như vầng trăng non. Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông ta thấy cách so sánh này vừa thể hiện hình dáng độc đáo của cầu Trường Tiền, vừa gợi nét trong sáng, thanh mảnh của người con gái Huế.
Nhà văn vẫn còn ngắm nhìn sông Hương một cách đắm say ở Cồn Giã Viên để khám phá ra, sông Hương “uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến”. Đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như tiếng nói “Vâng ạ” e ấp, ngọt ngào, kín đáo trong tình yêu. Trong khoảnh khắc trùng lai giữa lòng thành phố, sông Hương trở thành người tài nữ đánh đàn giữa đêm khuya” mà cái hồn của nó đã thấm vào những trang Kiều và âm nhạc Huế.
Trước khi hòa vào biển cả, ở cửa biển Thuận An, sông Hương lại đẹp đến nao lòng trong dáng vẻ lẳng lơ, kín đáo khi ngoặt một khúc quanh rồi vươn tay lưu luyến ôm lấy lần cuối thành phố Huế thân yêu. Qua cách phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông, những so sánh tài hoa của tác giả giúp ta nhận ra vẻ đẹp độc đáo, sâu sắc của Hương giang giống như nàng Kiều trong đêm tình tự quyết chí đi tìm Kim Trọng để rơi một lời thề chung thủy, sắt son.
Trong hành trình khám phá vẻ đẹp sông hương từ thượng nguồn đến vùng hạ lưu, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn khám phá ra sông Hương mang vẻ đẹp của một vùng văn hóa truyền thống. Từ góc nhìn lịch sử, tác giả điểm lại dấu ấn dòng sông trong lịch sử dân tộc: thế kỷ XV ở Dưa địa chí của Nguyễn Trãi, thế kỷ XVIII qua chiến thắng của anh hùng Nguyễn Huệ, thế kỷ XIX với máu của các cuộc khởi nghĩa, đi vào thời đại của Cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển.
Với cái nhìn xuyên suốt ấy, dòng Hương giang thơ mộng đã tham gia, trải nghiệm cùng những bước thăng trầm của lịch sử dân tộc. Sông Hương là vậy, qua cách phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông ta thấy nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước.
Nếu như ở đoạn một và hai, sông Hương được cảm nhận chủ yếu trên bề rộng của không gian địa lý với những liên tưởng độc đáo thì ở đoạn này, sông Hương được bố cục theo chiều sâu của lịch sử. Nó ghi dấu những chiến công, lặng khóc cho những hy sinh âm thầm, vùng lên quật khởi,… Nó giống như một tấm gương soi vào lịch sử.
Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông thì thấy Sông Hương như biết bao chiến sĩ vô danh trên dải đất hình chữ S, sinh ra không phải cầm súng cầm mác nhưng kẻ thù buộc ta phải đấu tranh. Khi bình yên, họ lại trở về với cuộc sống bình thường, trở về bản tính tự nhiên muôn thuở, như sông Hương “làm một người con gái dịu dàng của đất nước”.
Trong mối quan hệ với thi ca, sông Hương không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ. Có bao nhiêu người đến với sông Hương thì có bấy nhiêu lời thơ dạt dào, lai láng về dòng sông này. Từ cách phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông ta thấy đó là dòng sông mơ màng với nỗi quan hoài vạn cổ trong bóng chiều bảng lảng của thơ Bà Huyện Thanh Quan, là “dòng sông trắng – lá cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà, là dòng sông hùng tráng “như kiếm dựng trời xanh” trong khí phách của Cao Bá Quát, là sức mạnh phục sinh của tâm hồn, trong thơ Tố Hữu,…
Kết thúc phần một của bài ký, tác giả cất lên câu hỏi không phải để hỏi nguồn gốc của một danh xưng địa lý thông thường mà là một sự nhấn mạnh, ẩn chứa niềm tự hào sâu sắc về dòng sông quê hương. Đồng thời, gợi mở cho người đọc những hướng trả lời khác nhau bằng trải nghiệm văn hóa của bản thân.
Bài tùy bút đã thể hiện một bút pháp nghệ thuật độc đáo, tài hoa và phong tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tác giả đã thể hiện chất thơ quyến rũ làm say lòng người qua phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông. Những tri thức về địa lý, văn hóa, thi ca, âm nhạc của ông đã chung đúc thành trang văn tuyệt bút.
Phân tích bài Ai đã đặt tên cho dòng sông – Mẫu 6Tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông” là một bài bút kí nổi tiếng của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường. Ông là một nhà văn mang nặng ân tình với xứ Huế. Tác phẩm của ông đã lột tả được hết vẻ đẹp và linh hồn của dòng sông Hương, con sông mang đậm đặc trưng và dấu ấn của xứ Huế mộng mơ.
“Ai đã đặt tên cho dòng sông” được tác giả trình bày dưới dạng ký, thể loại văn ghi lại cảm xúc cũng như tình cảm của con người một cách sâu sắc và súc tích nhất. Thể loại này đưa bài kí vào lòng người đọc một cách nhẹ nhàng nhưng cũng rất chân thành. Qua giọng văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, dòng sông Hương hiện lên thật ấn tượng, với một vẻ đẹp thơ mộng đến ngỡ ngàng. Con sông này chính là dòng chảy duy nhất qua thành phố Huế, chính vì điều đó nên nó mang một đặc trưng riêng của xứ Huế mà không nơi nào có được. Có lẽ không chỉ tác giả mà những người dân xứ Huế cũng rất tự hào vì điều này.
Dưới ngòi bút tinh tế, sâu sắc cùng tình yêu tha thiết của Hoàng Phủ Ngọc Tường, con sông đã trở nên lộng lẫy, mê hoặc người đọc. Con sông hiện lên với nhiều góc độ, nhiều khía cạnh, với chiều dài của thời gian và chiều sâu của không gian. Và dù cho dưới góc độ nào thì sông Hương vẫn rất đẹp và nên thơ như thế.
Đầu tiên, tác giả muốn nói đến sông Hương ở vùng thượng nguồn. Đó là một vẻ đẹp mà không lẫn vào đâu được. Hình ảnh “một cô gái di gan phóng khoáng và man dại; tự do và trong sáng” được tác giả ưu ái khiến cho bóng dáng ấy đi vào lòng người đọc một cách chân thực nhất. Sông Hương còn được tác giả vẽ lên một cách đầy mê hoặc, đó là sông Hương như bản trường ca của rừng già; rầm rộ và mãnh liệt nhưng có lúc lại “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi của màu đỏ hoa đỗ quyên rừng”.
Dường như chỉ có duy nhất màu đỏ, một màu sắc đầy hoang dại ấy mới toát lên được vẻ đẹp đầy sức ám ảnh nhưng lại rất đỗi bình dị của sông Hương. Vẻ đẹp của con sông ở vùng thượng nguồn chắc chắn là một vẻ đầy mê đắm và tinh tế. Và đây cũng chính là đặc trưng của xứ Huế nên thơ và trữ tình.
Hơn thế nữa, sông Hương là dòng sông duy nhất thuộc về thành phố Huế. Chính vì thế nên vẻ đẹp của sông Hương là vẻ đẹp vang bóng một nền văn hóa trải qua nhiều thăng trầm nhưng cũng rất đỗi bí ẩn, quyến rũ của cố đô Huế. Trong con mắt của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương như “người con gái dịu dàng, đằm thắm, mềm mại trong lòng Huế”. Dòng sông thật đẹp và lãng mạn biết bao.
Để rồi khi sông Hương về với thành phố mộng mơ, rời xa thượng nguồn thì con sông lại trở nên mê đắm hơn bao giờ hết. Cô gái digan hoang dại ấy đã “vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản, để sắc nước trở nên xanh thẫm, trầm mặc như triết lý….; cho đến khi gặp được tiếng chuông Thiên Mụ, nghe âm thanh bát ngát tiếng gà, từ ấy sông Hương rạng rỡ như nắng mới, nàng uốn một cánh cung thật nhẹ, đến khi giáp mặt với thành phố, đường cong ấy làm cho nàng như mềm hẳn đi, như một tiếng vang không nói ra của tình yêu.”
Những câu văn thật nhẹ nhàng nhưng vô cùng tình tứ, lãng mạn được tác giả dùng để miêu tả vẻ đẹp của sông Hương khi về với thành phố Huế. Những đường nét mềm mại, mê đắm của sông Hương khiến cho tất cả ai khi đọc cũng đều cảm thấy sửng sốt, ngỡ ngàng, và cứ thế sông Hương len lỏi vào trong lòng người đọc một cách chân thực nhất.
Không chỉ vậy, đối với cố đô Huế, sông Hương còn là một nhân chứng đã cùng chứng kiến biết bao đổi thay, cùng những thăng trầm của thành phố Huế. Sông Hương cứ thế tồn tại như vậy, trải qua biết bao sự việc, cùng những năm tháng không thể nào quên của cố đô Huế nói riêng và thành phố Huế nói chung.
Chỉ với những câu văn giản dị, tinh tế, cùng với tình yêu chân thành tha thiết đối với mảnh đất và con người xứ Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem đến cho người đọc hình ảnh dòng sông Hương thơ mộng, lãng mạn hơn bao giờ hết. Dòng sông Hương trong văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường khiến cho ai đã từng đọc qua đều mong muốn được một lần đặt chân đến nơi đây, để được đắm mình trong những gì nên thơ nhất của xứ Huế.
Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông – Mẫu 7Trên khắp dải đất hình chữ S với ba miền: Bắc, Trung, Nam, vùng miền nào cũng đã từng để thương, để nhớ cho biết bao các nhà văn, nhà thơ có tâm hồn lãng mạn, bay bổng. Trong đó đặc biệt phải nói đến khúc giữa của dải đất này với miền Trung của xứ Huế mộng mơ.
Thiên nhiên, con người xứ Huế có lẽ luôn nổi bật với nét đẹp nhẹ nhàng và mê đắm, nhưng mấy ai biết rằng, điều làm nên nét đẹp đó chính là nhờ một phần vào nét đặc trưng của dòng sông Hương bao quanh thành phố này. Hoàng Phủ Ngọc Tường với bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông là một tác phẩm viết rất hay, rất sâu sắc về Hương giang biểu tượng cho thiên nhiên và con người xứ Huế.
Bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông được in trong tập bút kí cùng tên, gồm có 8 bài kí, được tác giả viết ngay sau chiến thắng mùa xuân năm 1975, khi cả nước đang tưng bừng xây dựng chủ nghĩa xã hội. Còn với Hoàng Phủ Ngọc Tường, lòng yêu nước, tinh thần dân tộc thường gắn với tình yêu thiên nhiên, yêu truyền thống văn hóa của dân tộc.
Sông Hương được tác giả miêu tả với ba trạng thái ở ba khúc khác nhau: khi ở thượng nguồn, rồi ở trong lòng và ngoại vi thành phố, thêm một chút đôi nét về văn hóa xứ sở. Với khúc thượng nguồn, Hương giang được nhà văn miêu tả với vẻ đẹp của một “cô gái Di gan phóng khoáng và man dại”, biện pháp nghệ thuật nhân hóa làm cho dòng sông hiện lên như là một cô gái đầy nữ tính, khi mãnh liệt, cháy bỏng, khi thì lại trầm mặc, êm đềm.
Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn dòng sông dưới con mắt của “một kẻ si tình”, ông yêu, ông mến cái vẻ đẹp đầy man dại, độc đáo ấy của sông Hương. Dòng sông còn được miêu tả như một bản trường ca của rừng già “Giữa rừng già, dòng sông là một bản trường ca, nó rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, nó mãnh liệt vượt qua những ghềnh thác, rồi nó cuộn xoáy như cơn lốc vào đáy vực bí ẩn”.
Với mỗi một dòng sông, khúc thượng nguồn là nơi nước chảy xiết nhất, mãnh liệt nhất, cho nên Hương giang cũng như vậy, nguồn nước của nó dồi dào, mạnh mẽ đủ để chảy vào bao quanh cả thành phố Huế của nó. Vừa là bản trường ca của rừng già, sông Hương vừa là “một người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”, chính sông Hương đã cung cấp lượng phù sa giàu có cho người dân nơi đây, cho thiên nhiên xứ Huế.
Nhà văn đã thể hiện được sự hiểu biết và gắn bó sâu sắc của mình với dòng sông của mảnh đất quê hương, bởi ông sinh ra và lớn lên tại thành phố này. Tình yêu dành cho xứ Huế khiến cho cô gái ấy không muốn mở lòng mình ra, chỉ dành trọn tình yêu cho xứ Huế mà trái tim nàng “đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”
Vượt qua khúc thượng nguồn, sông Hương tìm về với thành phố thân yêu của nó. Sông Hương theo dòng thủy trình đã tìm về thành phố Huế như một sự tìm kiếm có ý thức “từ ngã ba tuần sông Hương theo hướng Nam Bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang Tây Bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế.”
Nó tìm về nơi mà nó phải thuộc về, cũng như dòng sông Seine của Pari hay sông Đa nuýp của Budapest chỉ chảy trong lòng một thành phố duy nhất. Tâm trạng của người con gái mộng mơ “vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc” khi nó được gặp người tình của mình, chính là thành phố Huế. Về với miền đất quen thuộc, Hương giang được ví với “tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”, khơi gợi ra một nét đẹp đặc trưng của cố đô Huế, đó là nhã nhạc cung đình Huế.
Advertisement
Làm sao người đọc có thể quên được những lời hát tình tứ, những điệu nhạc du dương vốn đã trở thành nền văn hóa thi ca trên những con thuyền xuôi dòng Hương giang trong những đêm trăng sáng hờ hững, thơ mộng. Phải yêu thiên nhiên, yêu quê hương của mình lắm thì nhà văn mới có thể cảm nhận sâu sắc về dòng sông Hương đến như vậy. Hương giang nhảy “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”, nó muốn gắn chặt với nơi đây lâu nhất có thể.
Nhưng dù có chậm rãi đến như thế nào thì cũng đến lúc sông Hương phải từ biệt thành phố để tiếp tục thủy trình của mình. Hình ảnh chia tay của người con gái ấy được miêu tả với tâm trạng đầy lưu luyến, bịn rịn: “Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ.
“Cả một hành trình vượt bao gian nan để gặp được người tình của mình, Hương giang chẳng nỡ lìa xa tình yêu mãnh liệt của nó, cho nên nó đột ngột chuyển dòng, để được gặp lại thành phố một lần nữa ở thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Tại đây, sông Hương nói lời thề của mình dành cho thành phố: ““Còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ…”.
Lời tạm biệt của dòng sông với xứ Huế gợi liên tưởng đến cảnh chia ly của những đôi tình nhân, cũng bịn rịn, thắm thiết không nỡ rời xa. Thương mến và giàu tình cảm đến như vậy, làm sao người đọc và thành phố này có thể lãng quên đi người con gái thủy chung, son sắt ấy?
Cuối cùng, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường miêu tả dòng sông Hương với vẻ đẹp gắn liền với những nét đẹp văn hóa của dân tộc. Sông Hương là dòng sông của lịch sử, đã cùng các vị vua Hùng trải qua thời kì khó khăn dựng nước và giữ nước, nó là chứng nhân cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Mĩ xâm lược, đặc biệt là sự kiện Xuân Mậu Dần năm 1968.
Biết bao tội ác của quân giặc được sông Hương nhớ mãi và găm vào trái tim mình. Cùng với đó là những hình ảnh bất khuất, kiên cường của cả dân tộc không thể nào quên. Sông Hương vẫn cứ ở đó, trầm mặc khi bình thường và man dại khi cần thiết, nó sẽ tiếp tục theo chân thành phố và cả dân tộc trong những năm tháng tiếp theo của tương lai. Yêu biết bao vẻ đẹp của con sông trữ tình và mộng mơ ấy!
Với bài bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm hiện lên trước mắt người đọc hình ảnh một dòng sông Hương với vẻ đẹp thật nữ tính, làm mê đắm không chỉ với người dân xứ Huế mà còn cả những người lữ khách từng đặt chân tới nơi đây. Đọc tác phẩm, người đọc muốn xách ba lô lên và đi ngay, để được thăm thú và ngắm nhìn người con gái tình tứ với quê hương, với xứ sở thân yêu của nó, cũng như lòng chung thủy bền vững của con người trong tình yêu.
Phân tích bài Ai đã đặt tên cho dòng sông – Mẫu 8Hoàng Phủ Ngọc Tường là người có vốn hiểu biết phong phú, sâu rộng trên nhiều lĩnh vực văn hóa, lịch sử địa lý. Các tác phẩm của ông thường có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ tình với những liên tưởng mạnh mẽ và một lối hành văn mê đắm tài hoa. Ai đã đặt tên cho dòng sông là bài kí xuất sắc nhất của ông, thể hiện đặc trưng phong cách của nhà văn tài hoa, uyên bác này
Ngay từ nhan đề của tác phẩm đã đem đến cho người đọc sự tò mò, hứng thú. Đồng thời đó như một gợi mở về vẻ đẹp của dòng sông Hương, và huyền thoại về sông Hương. Để làm nổi bật vẻ đẹp của dòng sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã soi ngắm nó trên nhiều góc độ. Đầu tiên ông nhìn sông Hương trên phương diện địa lí, cảnh sắc thiên nhiên vô cùng đa dạng, quyến rũ. Sông Hương khi ở trong rừng núi Trường Sơn là bản trường ca của rừng già thâm u, huyền bí.
Đây là nơi khởi nguồn của dòng chảy, gắn liền với đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, con sông toát lên vẻ đẹp vừa hùng vĩ vừa trữ tình, mang một sức sống mãnh liệt. Hoàng Phủ Ngọc Tường ví dòng sông Hương như một cô gái Digan vô cùng quyến rũ : “sông hương đã sống một nửa cuộc đời mình như một cô gái Digan phóng khoáng và gan dạ”.
Bằng biện pháp nhân hóa đã gợi ra vẻ đẹp hoang dại nhưng cũng rất tình tứ của dòng sông. Nhưng khi ra khỏi rừng già, dòng sông nhanh chóng mang vẻ đẹp “dịu dàng và trí tuệ”, góp phần hình thành, gìn giữ và bảo tồn văn hóa của xứ Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tỏ ra vô cùng tinh tế, uyên bác và kì công để khám phá, thấu hiểu từng vẻ đẹp của dòng sông: “dòng sông hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”.
Bằng con mắt quan sát tinh tế của mình, tác giả còn nhận thấy, sông Hương như một người con gái đẹp bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài. Trong cảm nghĩ của nhà văn, sông Hương giống như “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” được “người tình mong đợi đến đánh thức”. Từ đây, thủy trình về xuôi của sông Hương giống như một cuộc tìm kiếm người tình nhân đích thực của một người gái đẹp trong câu chuyện tình yêu lãng mạn.
Hành trình về xuôi của dòng sông Hương quả thực là một bức tranh đa dạng màu sắc, ở mỗi địa danh khác nhau, sông Hương lại khoác trên mình một vẻ đẹp mới lạ: khi thì như tấm lụa mềm, khi thì sắc nước xanh thăm thẳm, … “Phải chăng người con gái khi đến với người yêu không chỉ để dâng tặng tình yêu mà còn để hoàn thiện và phơi bày vẻ đẹp của mình?”.
Trong không gian kinh thành Huế cổ kính, u tịch, sông Hương tiếp tục phô diễn những vẻ đẹp khác nhau. Bắt đầu đi vào thành phố, sông Hương được ví như một người tình vui tươi và vô cùng duyên dáng. Dòng sông vui hẳn lên khi bắt gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ thân thuộc, đây đồng thời cũng là dấu hiệu con sông sắp đi vào thành phố. Người con gái xinh đẹp – sông Hương làm duyên, làm dáng lần cuối cùng trước khi chảy vào thành phố, về với người tình nhân đích thực của mình: uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến, khiến dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu.
Vào đến thành phố sông Hương không còn mang cái man dại, mãnh liệt như khi ở Trường Sơn mà nó như điệu slow tình cảm, chạy chậm chạp, có chăng “chỉ còn là một một hồ yên tĩnh”. Bằng vốn hiểu biết phong phú của mình, ông đã lí giải từ nhiều góc độ khác nhau, đầu tiền là do đặc điểm tự nhiên: những chi lưu ấy, cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước.
Nhưng đặc biệt hơn là khi ông lí giải từ lí lẽ của trái tim thì “điệu chảy lặng lờ”, “ngập ngừng muốn đi muốn ở” của sông Hương là do tình cảm dành riêng cho Huế, do quá yêu thành phố của mình, do muốn được nhìn ngắm nhiều hơn nữa thành phố thân thương trước khi phải rời xa. Khi rời thành phố sông Hương còn là một người tình chung thủy, đã đi rồi còn lưu luyến vòng quay trở lại một lần nữa.
Không chỉ nhìn sông Hương từ góc nhìn địa lý, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn đi sâu vào lịch sử để khám phá một vẻ đẹp khác của sông Hương. Ở mỗi thời kì lịch sử, sông Hương đều có những đóng góp quang vinh với Tổ quốc. Sông Hương đã chứng kiến biết bao trận chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại theo sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi.
Là dòng sông “Vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ” vào TK XVIII. Ở thế kỉ XX, sông Hương đi vào chiến công rung chuyển thời đại với cách mạng tháng Tám lịch sử. Bằng cách đặt sông Hương vào những thời điểm lịch sử trọng đại khác nhau, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ngầm khẳng định sự thiêng liêng, vĩ đại của dòng sông này.
Dòng sông Hương thơ, mộng, trữ tình còn là nguồn cảm hứng cho biết bao thế hệ thi sĩ. Sông Hương trước hết khơi nguồn cảm hứng âm nhạc, như một “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Hình ảnh so sánh này xuất phát từ thực tế, sông Hương là sông âm nhạc, với những khúc ca Huế dịu dàng, thiết tha. Đây là nơi gặp gỡ của âm nhạc cổ điển cũng như những câu hò dân gian đều đã được sinh thành trên mặt nước sông Hương, nên nó chỉ vang lên hay nhất “trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”.
Không chỉ vậy, sông Hương còn khơi dậy cảm hứng thi ca. Ở điểm này sông Hương thực sự đã trở thành nàng thơ của tâm hồn thi sĩ. Với diện mạo phong phú, khi dữ dội, man dại, khi e ấp, thướt tha, sông Hương là nguồn cảm hứng thi ca muôn đời. Mỗi người bằng khám phá riêng, bằng cảm nhận riêng lại khám phá ra những vẻ đẹp khác nhau của sông Hương: “Từ xanh biếc thường ngày, nó bỗng thay màu thực bất ngờ “dòng sông trắng lá cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà”; “từ tha thướt mơ màng nó chợt nhiên hùng tráng lên như “kiếm dựng trời xanh” trong khí phách của Cao Bá Quát”.
Đặc biệt, sông Hương còn được cảm nhận trong trí tưởng tượng đầy sáng tạo, tài hoa của tác giả. Qua dòng chảy của dòng sông, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn nhận được tính cách của con người xứ Huế. Ông nhìn sông Hương như một thiếu nữ xinh đẹp và tài hoa, dịu dàng và sâu sắc, đa tình và kín đáo, lẳng lơ nhưng rất mực chung tình.
Ở người thiếu nữ ấy nổi bật lên vẻ đẹp của sự nữ tính, khi là cô gai Digan phóng khoáng và man dại với bản lĩnh gan dạ, tâm hồn tự do và trong sáng, khi là một người con gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, khi là người con gái dịu dàng của đất nước, khi là người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở với một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, lúc lại là người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya…
Không chỉ vậy, sông Hương còn mang vẻ đẹp đa tình, nó được ông phản ánh trong mối quan hệ với thành phố, đó là quan hệ của cặp tình nhân lý tưởng trong Truyện Kiều “tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca và âm nhạc”.
Trong bài tùy bút này sông Hương đã được đặt trong một cái nhìn tổng thể và toàn diện: địa lí, lịch sử, văn hóa … Trong các mối liên hệ ấy, sông Hương vừa tươi đẹp, vừa thơ mộng và quyến rũ trong các sắc thái thiên nhiên vừa sâu lắng trong các giá trị văn hóa, vừa phong phú đến bất ngờ trong khả năng gợi hứng thú sáng tạo cho những người nghệ sĩ, vừa kiên cường bất khuất trong thế đứng và tinh thần khi đối diện với giặc ngoại xâm…
Song dường như sau tất cả những điều đó, sông Hương vẫn mãi còn những điều bí ẩn chưa được khám phá hết nên vẫn mãi gợi niềm bâng khuâng trong tâm hồn con người.
…………………
Văn Mẫu Lớp 9: Phân Tích 3 Khổ Thơ Đầu Bài Mùa Xuân Nho Nhỏ 3 Dàn Ý &Amp; 6 Mẫu Phân Tích 3 Khổ Đầu Mùa Xuân Nho Nhỏ Của Thanh Hải
A. Mở bài: Giới thiệu chung:
Có những tác phẩm đọc xong gấp sách lại là ta quên ngay cho đến khi xem lại mới chợt nhớ là mình đã đọc rồi, nhưng cũng có những tác phẩm như dòng chảy qua tâm hồn ta để lại trong ta những ấn tượng chạm khắc trong tâm khảm. Và “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải cũng là một tác phẩm như thế. Bài thơ đã ghi lại những cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân của thiên nhiên, của đất nước. Đến với 3 khổ thơ đầu của bài thơ, chúng ta sẽ cảm nhận được điều đó.
B. Thân bài
1. Khái quát về tác phẩm
Bài thơ ra đời tháng 11/1980 – 5 năm sau ngày đất nước giành được độc lập.Và đây cũng là một hoàn cảnh rất đặc biệt đối với nhà thơ Thanh Hải. Ông đang bị bệnh nặng phải điều trị ở bệnh viện trung ương thành phố Huế, và một tháng sau ông qua đời. Có hiểu cho hoàn cảnh của nhà thơ trên giường bệnh ta mới thấy hết được tấm lòng tha thiết với cuộc sống, với quê hương đất nước của nhà thơ.
2. Phân tích đoạn thơ
2.1. Khổ 1 – Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân của thiên nhiên
– Bức tranh thiên nhiên mùa xuân trong “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải được mở ra bằng những hình ảnh, màu sắc, âm thanh hài hòa, tràn đầy sức sống:
+ Ngay hai câu mở đầu ta đã bắt gặp một cách viết khác lạ. Tác giả không viết như bình thường: “một bông hoa tím biếc mọc giữa dòng sông xanh” mà đảo lại “Mọc giữa dòng sông xanh/Một bông hoa tím biếc”. Động từ “mọc” được đảo lên đầu câu thơ là một dụng ý nghệ thuật của tác giả . Thông qua phép đảo ngữ ấy, nhà thơ như muốn khắc sâu ấn tượng về sức sống trỗi dậy và vươn lên của mùa xuân. Tưởng như bông hoa tím biếc kia đang từ từ, lồ lộ mọc lên, vươn lên, xòe nở trên mặt nước xanh của dòng sông xuân.
+ Không gian mùa xuân rộng mở tươi tắn với hình ảnh một dòng sông trong xanh chảy hiền hoà. Cái màu xanh ấy phản ánh được màu xanh của bầu trời, của cây cối hai bên bờ, cái màu xanh quen thuộc mà ta có thể gặp ở bất kì một con sông nào ở dải đất miền Trung.
+ Và nổi bật trên nền xanh lơ của dòng sông là hình ảnh “một bông hoa tím biếc”, một hình ảnh thân thuộc của cánh lục bình hay bông súng,bông trang mà ta thường gặp ở các ao hồ sông nước của làng quê. Màu tím biếc ấy không lẫn vào đâu được với sắc màu tím Huế thân thương – vốn là nét đặc trưng của những cô gái đất kinh kỳ với sông Hương núi Ngự.
– Tuy nhiên bức tranh thiên nhiên không chỉ có “họa” mà còn có “nhạc” bởi tiếng chim chiền chiện cất lên với muôn vàn lời ca tiếng hót, reo mừng:
+ Nhà thơ gọi “ơi” nghe sao mà tha thiết thế! Lời gọi ấy không cất lên từ tiếng nói mà cất lên từ sâu thẳm tình yêu thiên nhiên, cất lên từ tấm lòng của nhà thơ trước mùa xuân tươi đẹp với những âm thanh rộn rã.
+ Lời gọi ấy mới đầu nhen nhóm ở một góc trái tim, nhưng con người nhà thơ và những cảnh sắc, âm thanh kia như đã hòa vào làm một, cảm xúc từ đó mà òa ra thành lời, thật ngỡ ngàng, thật thích thú.
+ Cảm xúc của nhà thơ đã trào dâng thực sự qua câu hỏi tu từ: “Hót chi mà vang trời”. Thứ âm thanh không thể thiếu ấy làm sống dậy cả không gian cao rộng, khoáng đạt, làm sống dậy, vực dậy cả một tâm hồn con người đang phải đối mặt với những bóng đen u ám của bệnh tật, của cái chết rình rập.
– Thiên nhiên, nhất là mùa xuân vốn hào phóng, sẵn sàng trao tặng con người mọi vẻ đẹp nếu con người biết mở rộng tấm lòng. Thanh Hải đã thực sự đón nhận mùa xuân với tất cả sự tài hoa của ngòi bút, sự thăng hoa của tâm hồn. Nhà thơ lặng ngắm, lặng nghe bằng cả trái tim xao động, bằng trí tưởng tượng, liên tưởng độc đáo:
+ Cụm từ “ giọt long lanh” gợi lên những liên tưởng phong phú và đầy thi vị. Nó có thể là giọt sương lấp lánh qua kẽ lá trong buổi sớm mùa xuân tươi đẹp, có thể là giọt nắng rọi sáng bên thềm, có thể giọt mưa xuân đang rơi…Nhưng theo mạch cảm xúc của bài thơ thì có lẽ đây là giọt âm thanh của tiếng chim ngân vang, đọng lại thành từng giọt niềm vui, rơi xuống cõi lòng rộng mở của thi sĩ, thấm vào tâm hồn đang rạo rực tình xuân.
+ Phép ẩn dụ chuyển đổi cảm giác được vận dụng một cách tài hoa, tinh tế qua trí tưởng tượng của nhà thơ. Thành Hải cảm nhận vẻ đẹp của mùa xuân bằng nhiều giác quan: thị giác, thính giác và cả xúc giác.
+ Cử chỉ “Tôi đưa tay tôi hứng” thể hiện sự nâng niu, trân trọng của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời lúc với xuân với cảm xúc say sưa, xốn xang, rạo rực. Nhà thơ như muốn ôm trọn vào lòng tất cả sức sống của mùa xuân, của cuộc đời.
2.2. Cảm xúc trước mùa xuân của đất nước
* Khổ 2
Từ những cảm xúc trước mùa xuân của thiên nhiên, Thanh Hải tiếp tục bộc lộ những cảm xúc của mình khi đất nước bước vào một mùa xuân mới:
– Không phải ngẫu nhiên trong khổ thơ lại xuất hiện hình ảnh“người cầm súng” và “người ra đồng”. Họ là những con người cụ thể, những con người làm nên lịch sử với hai nhiệm vụ cơ bản của đất nước ta trong suốt quá trình phát triển lâu dài: chiến đấu và sản xuất, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.
– Mùa xuân đến mang đến tiếng gọi của những cố gắng mới và hi vọng mới, mang đến tiếng gọi của đất nước, của quê hương đang trên đà đổi thay, phát triển. Những tiếng gọi lặng lẽ tới từ mùa xuân làm thức dậy con người, làm trái tim con người như bừng lên rạng rỡ trong không khí sôi nổi của đất nước, của muôn cây cỏ đã đi theo người lính vào chiến trường, sát kề vai,đã cùng người lao động hăng say ngoài đồng ruộng.
– Mùa xuân không những chắp thêm đôi cánh sức mạnh cho con người mà còn chuẩn bị cho con người những “lộc” non tươi mới, căng tràn nhựa sống:
+ “Lộc” không chỉ là hình ảnh tả thực mà con mang ý nghĩa ẩn dụ, tượng trưng.
+ “Lộc” là nhành non chồi biếc của cỏ cây trong mùa xuân.
+ Đối với người chiến sĩ, “lộc” là cành lá ngụy trang che mắt quân thù trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc đầy cam go và ác liệt.
+ Đối với người nông dân “một nắng hai sương”, “lộc” là những mầm xuân tươi non trải dài trên ruộng đồng bát ngát, báo hiệu một mùa bội thu.
+ Nhưng đặc biệt hơn cả, “lộc” là sức sống, là tuổi trẻ, sức thanh xuân tươi mới đầy mơ ước, lí tưởng, đầy những hoài bão và khát vọng cống hiến của tuổi trẻ, sôi nổi trong mỗi tâm hồn con người – tâm hồn của người lính dũng cảm, kiên cường nơi lửa đạn bom rơi – tâm hồn của người nông dân cần cù,hăng say tăng gia sản xuất. “Lộc” chính là thành quả hôm nay và niềm tin, hi vọng ngày mai.
– Từ những suy nghĩ rất thực về đất nước, nhà thơ khái quát:
+ “Hối hả” diễn tả nhịp điệu khẩn trương, tất bật của những con người Việt Nam trong giai đoạn mới, thời đại mới, trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.
+ Còn “xôn xao” lại bộc lộ tâm trạng náo nức rộn ràng.
* Khổ 3
Cảm xúc trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước khi bước vào mùa xuân, nhà thơ Thanh Hải đã có cái nhìn sâu sắc và tự hào về lịch sử bốn nghìn năm dân tộc:
+ Với nghệ thuật nhân hóa, Tổ quốc như một người mẹ tần tảo,vất vả và gian lao, đã làm nổi bật sự trường tồn của đất nước. Để có được sự trường tồn ấy, giang sơn gấm vóc này đã thấm bao máu, mồ hôi và cả nước mắt của các thế hệ, của những tháng năm đằng đẵng lúc hưng thịnh, lúc thăng trầm. Nhưng dù trở lực có mạnh đến đâu cũng không khuất phục được dân tộc Việt Nam:
+ Đặc biệt, phép tu từ so sánh được nhà thơ sử dụng vô cùng đặc sắc, làm ý thơ hàm súc
– “Đất nước như vì sao/Cứ đi lên phía trước”. Sao là nguồn sáng bất diệt của thiên hà, là vẻ đẹp lung linh của bầu trời đêm, là hiện thân của sự vĩnh hằng trong vũ trụ. So sánh như thế, là tác giả đã ngợi ca đất nước trường tồn, tráng lệ, đất nước đang hướng về một tương lai tươi sáng. Điệp ngữ “đất nước” được nhắc lại hai lần thể hiện sâu sắc ý thơ: trải qua những gian truân, vất vả, đất nước vẫn toả sáng đi lên không gì có thể ngăn cản được.
3. Đánh giá
Như vậy, bằng biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, điệp ngữ, nghệ thuật đảo ngữ cùng các từ ngữ, hình ảnh giàu giá trị gợi tả, hai khổ thơ đầu đã giúp người đọc cảm nhận được những cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân của thiên nhiên, của đất nước. Đó là niềm say sưa ngây ngất trước vẻ đẹp mộng mơ, dịu dàng của bức tranh thiên nhiên xứ Huế, là niềm tin, niềm vui, niềm tự hào khi đất nước bước vào xuân. Và đằng sau những vần thơ ấy, ta nhận ra ở Thanh Hải là niềm yêu đời, yêu cuộc sống, là tình yêu tha thiết với thiên nhiên, với quê hương đất nước. Tình cảm ấy thật đáng trân trọng biết bao.
C. Kết bài
– Đánh giá chung về đoạn thơ
– Đoạn thơ khơi gợi trong em những tình cảm, trách nhiệm gì? Em học được bài học gì?
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả: Thanh Hải tên khai sinh là Phạm Bá Ngoãn, quê ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông là một trong những cây bút có công xây dựng nền văn học cách mạng miền Nam ngay từ buổi đầu.
Giới thiệu tác phẩm: “Mùa xuân nho nhỏ” được viết vào tháng 11 năm 1980, không bao lâu trước khi nhà thơ qua đời, thể hiện tình yêu cuộc sống, yêu đất nước thiết tha và những ước nguyện của nhà thơ.
Giới thiệu đoạn trích: Đoạn thơ là ba khổ đầu của bài, vẽ nên một bức tranh thiên nhiên trong sáng, đẹp đẽ, khung cảnh đất nước tràn đầy khí xuân và bộc lộ tấm lòng của nhà thơ đối với đất nước, với cuộc đời.
2. Thân bài
a. Bức tranh thiên nhiên mùa xuân (6 câu đầu)
* Bức tranh thiên nhiên trong 6 câu đầu được vẽ bằng vài nét chấm phá nhưng rất đặc sắc.
– Đó là bức tranh giàu hình ảnh và màu sắc:
Có sắc xanh của dòng sông, có màu tím biếc của hoa, có cánh chim chiền chiện bay vút lên trời cao. Không gian thơ rất rộng mở: vừa cao vừa rộng dài. Màu xanh tươi non của sự sống mới là màu sắc chủ đạo của bức tranh, rất hài hòa với sắc tím – đặc trưng của xứ Huế.
Nghệ thuật đảo ngữ và việc sử dụng động từ “mọc” ở ngay câu thơ đầu tiên khiến bông hoa trở thành điểm nhấn đặc sắc của bức tranh. Một bông thôi nhưng sức sống của nó mãnh liệt vô cùng!
– Đó cũng là bức tranh rộn rã, tươi vui với tiếng chim chiền chiện hót vang trời. Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác ở các câu 5,6 – từ chỗ là âm thanh (cảm nhận bằng thính giác) chuyển thành từng giọt (hình và khối, cảm nhận bằng thị giác), tiếng chim trong ánh sáng của mùa xuân, lan tỏa khắp bầu trời như đọng thành “từng giọt long lanh rơi” hay là giọt mưa mùa xuân, giọt sương mùa xuân, trong veo, rơi xuống từng nhành cây, kẽ lá như những hạt ngọc? Nhưng dù hiểu theo cách nào đi nữa, tác giả cũng thật tài tình, gợi sự trong trẻo, thanh khiết của tiếng chim và cả của mùa xuân.
* Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân của đất trời
Nhà thơ đã quan sát và cảm nhận khí xuân tươi vui bằng nhiều giác quan như thị giác, thính giác, xúc giác, nhưng hơn cả là bằng tâm hồn rộng mở, luôn mở rộng lòng hướng tới sự hòa hợp với thiên nhiên.
Niềm say mê của nhà thơ còn thể hiện qua cái nhìn trìu mến với cảnh vật, trong những lời bộc lộ trực tiếp như lời trò chuyện với thiên nhiên: “ơi”, “hót chi… mà”. Đặc biệt, nhà thơ còn vừa nâng niu, trân trọng vừa tha thiết, trìu mến với mùa xuân: đưa tay hứng lấy từng giọt long lanh của tiếng chim chiền chiện.
b) Hình ảnh đất nước mùa xuân
* Không khí xuân tràn ngập mọi nẻo đường của Tổ quốc
Hai câu đầu khổ gợi liên tưởng đến những người chiến sĩ ra trận với cành lá ngụy trang. “Lộc dắt đầy quanh lưng” gợi màu xanh của sức sống mới đang căng tràn trong mỗi sự vật và cả trong lòng người, trong sức trẻ.
Hai câu tiếp là hình ảnh những người nông dân cần cù, chăm chỉ đang ươm mầm cho sự sống trên những cánh đồng quê hương. Hai câu thơ gợi ra cái màu xanh non mơn mởn trải dài mênh mông trên mọi miền quê nước Việt.
“Tất cả như hối hả/ Tất cả như xôn xao”: Điệp từ “tất cả” cùng các từ láy tượng hình, tượng thanh đã tái hiện không khí hối hả, vội vã, khẩn trương, không ngừng nghỉ trên khắp đất nước. Cái náo nức, hồ hởi, sự hăm hở như căng tràn trong mỗi con người.
* Suy ngẫm về đất nước của nhà thơ
Đất nước được nhân hóa như một bà mẹ “vất vả và gian lao” nhưng vẫn “cứ đi lên phía trước”. Câu thơ như chứa trong nó cả ngàn năm lịch sử dựng nước, giữ nước đầy gian khổ, nhọc nhằn, đau thương của dân tộc ta.
Nhà thơ bộc lộ niềm tin tưởng, tự hào về tương lai tươi sáng, trường tồn, bất diệt của đất nước qua hình ảnh so sánh “đất nước như vì sao”.
Hình ảnh “đất nước” điệp lại hai lần cũng thể hiện niềm xúc động, tự hào và tình yêu nước của nhà thơ.
c) Nghệ thuật
Thể thơ năm chữ gần với những làn điệu dân ca, âm hưởng trong sáng, nhẹ nhàng, tha thiết, điệu thơ như điệu của tâm hồn, cách gieo vần chân tạo sự liền mạch của dòng cảm xúc.
Hình ảnh tự nhiên, giản dị mà giàu ý nghĩa biểu tượng (“cành hoa”, “con chim”, nốt trầm”).
Giọng thơ phù hợp với cảm xúc của tác giả: đoạn đầu vui, say sưa với vẻ đẹp của mùa xuân, thiên nhiên, rồi phấn chấn, hối hả trước khí thế lao động của đất nước. Cuối cùng là trầm lắng, hơi trang nghiêm mà thiết tha bộc bạch, tâm niệm.
3. Kết bài
Đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung đã cho ta thấy vẻ đẹp của hồn thơ Thanh Hải tha thiết yêu đời, yêu cuộc sống.
Rút ra bài học về tinh thần lạc quan, yêu đời, chan hòa với thiên nhiên, quan tâm tới tình hình đất nước.
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Thanh Hải và tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ.
Giới thiệu về 3 khổ thơ đầu của tác phẩm: mùa xuân của thiên nhiên và mùa xuân đất nước, con người.
2. Thân bài
a. Khổ 1: Mùa xuân của thiên nhiên
– Hình ảnh:
“dòng sông xanh”: thiên nhiên trong lành, tươi đẹp
“bông hoa tím biếc”: sức sống tràn đầy
“Con chim chiền chiện, hót vang trời “: âm thanh rộn ràng, náo nhiệt báo hiệu xuân về
– Tâm trạng của tác giả: trân trọng, nâng niu sự sống: “đưa tay hứng”
b. Khổ 2 + 3: Mùa xuân của đất nước, con người
– Hình ảnh:
Người cầm súng: người trực tiếp chiến đấu bảo vệ đất nước
Người ra đồng: người trực tiếp sản xuất ra lương thực phục vụ cho cuộc sống của con người.
– Tác giả nhắc đến người cầm súng và người ra đồng vì đây là hai đối tượng chính phục vụ cho đất nước .
– Hình ảnh “lộc” là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của tác giả bởi vì lộc ở đây không phải là những chồi non của cây lá mà với tác giả:
Những cành lá ngụy trang gài trên lưng những người cầm súng chính là lộc của mùa xuân: đi bảo vệ tổ quốc, người chiến sĩ như mang cả mùa xuân cho đất nước.
Những nương mạ xanh non của người ra đồng cũng chính là lộc của mùa xuân, lộc trải dài nương mạ họ đã đem mùa xuân đến mọi nơi trên đất nước.
– Từ những cảm nhận về mùa xuân của con người, nhà thơ chuyển ngòi bút của mình sang cảm nhận mùa xuân của đất nước.
– Hình ảnh “Ðất nước bốn nghìn năm/Vất vả và gian lao”: gợi lại cả một quá trình đất nước đã phải trải qua biết bao đau khổ, gian nan để có được cuộc sống tự do như ngày hôm nay.
– Cách so sánh: “Đất nước như vì sao/Cứ đi lên phía trước”: cho thấy niềm tin tưởng tuyệt đối của tác giả vào sự phát triển hưng thịnh, đi lên của đất nước .
c. Đánh giá
– Với ba khổ thơ đầu, tác giả đã vẽ ra trước mắt người đọc mùa xuân của thiên nhiên, đất nước đầy tươi đẹp, rộn ràng, qua đó cũng thể hiện tình yêu quê hương tha thiết và muốn gắn bó, được cống hiến cho đất nước, góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc.
3. Kết bài
Khẳng định giá trị của ba đoạn thơ
Khẳng định tình cảm yêu mến thiên nhiên, yêu mến quê hương, đất nước của tác giả
Mùa xuân là mùa của khởi đầu, thường gợi lên trong mỗi chúng ta niềm khát khao và hi vọng. Phải chăng vì thế mà Thanh Hải lựa chọn mùa xuân để khởi nguồn cảm hứng. Niềm khát khao cháy bỏng trong tâm hồn nhà thơ Thanh Hải, được gửi gắm qua bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” (11/1980). Bài thơ như những nốt nhạc trầm bổng, những giai điệu ngân nga cất lên từ đáy lòng của một con người tha thiết được góp phần nhỏ bé vào cuộc đời chung rộng lớn. “Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải thể hiện những rung động sâu xa trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước, trước những hi sinh và cố gắng say sưa trong sự nghiệp bảo vệ, xây dựng Tổ quốc của toàn dân tộc. Đó là “là tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời”.
Mở đầu bài thơ như tiếng hát reo vui đón chào một mùa xuân đẹp đã về.
Ở khổ thơ thứ nhất, nhà thơ vẽ ra trước mắt người đọc một bức tranh thiên nhiên về mùa xuân quê hương đất nước rộn rã âm thanh, nên thơ, rực rỡ sắc màu với những đường nét hài hòa, tràn đầy sức sống. Thanh Hải đã vẽ nên một bức tranh xuân tươi đẹp, đầy sức sống và quyến rũ lạ thường. Từ mùa xuân của thiên nhiên đất trời, đến khổ thơ thứ hai và ba, Thanh Hải dẫn người đọc đắm chìm vào khung cảnh mùa xuân của cuộc sống, của nhân dân và đất nước rộn ràng trong trẻo cùng những hình ảnh đậm chất sử thi. Hai khổ thơ đồng thời cũng là minh chứng cho tài năng nghệ thuật độc đáo cũng như tình yêu, niềm tự hào sâu sắc mà Thanh Hải dành cho đất nước.
Khi xưa, trong đêm đen của kiếp sống nô lệ, nhà thơ Tố Hữu – một người con xứ Huế đã từng viết:
Đó là Huế trong quá khứ nô lệ đen tối, lầm than.Thời nay,trong hiện tại, Huế đã đổi khác, đang hối hả nhịp chiến đấu, xây dựng cùng đất nước:
Thanh Hải đã vẽ lên một bức tranh mùa xuân đất nước tuyệt đẹp với sức xuân phơi phới, từ đó làm nổi bật lên sức sống mãnh liệt của đất nước. Nhà thơ Thanh Hải đã cảm nhận và tái hiện khung cảnh mùa xuân của đất nước qua hai hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng là “người cầm súng” và “người ra đồng”. Sức xuân nảy nở nơi những con người chiến đấu và lao động – hai mẫu người gắn liền với chiều dài lịch sử phát triển của đất nước. Họ là những con người cụ thể, những con người làm nên lịch sử với hai nhiệm vụ cơ bản của đất nước ta trong suốt quá trình phát triển lâu dài: chiến đấu và sản xuất, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Điệp ngữ “mùa xuân” không chỉ gợi tả khung cảnh thiên nhiên đất trời lúc vào xuân mà còn thể hiện được sức sống, sức trẻ tràn đầy của đất nước sau chiến tranh. Mùa xuân đến mang đến tiếng gọi của những cố gắng mới và hi vọng mới, mang đến tiếng gọi của đất nước, của quê hương đang trên đà đổi thay, phát triển. Những tiếng gọi lặng lẽ tới từ mùa xuân làm thức dậy con người, làm trái tim con người như bừng lên rạng rỡ trong không khí sôi nổi của đất nước, của muôn cây cỏ đã đi theo người lính vào chiến trường, sát kề vai, đã cùng người lao động hăng say ngoài đồng ruộng. Mùa xuân không những chắp thêm đôi cánh sức mạnh cho con người mà còn chuẩn bị cho con người những “lộc” non tươi mới, căng tràn nhựa sống. “Lộc” là nhành non chồi biếc của cỏ cây trong mùa xuân. “Lộc” không chỉ là hình ảnh tả thực mà con mang ý nghĩa ẩn dụ, tượng trưng. Đối với người chiến sĩ, “lộc” là cành lá ngụy trang che mắt quân thù trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc đầy cam go và ác liệt. Đối với người nông dân “một nắng hai sương”, “lộc” là những mầm xuân tươi non trải dài trên ruộng đồng bát ngát, báo hiệu một mùa bội thu. Nhưng đặc biệt hơn cả, “lộc” là sức sống, là tuổi trẻ, sức thanh xuân tươi mới đầy mơ ước, lí tưởng, đầy những hoài bão và khát vọng cống hiến của tuổi trẻ, sôi nổi trong mỗi tâm hồn con người – tâm hồn của người lính dũng cảm, kiên cường nơi lửa đạn bom rơi – tâm hồn của người nông dân cần cù, hăng say tăng gia sản xuất. “Lộc” chính là thành quả hôm nay và niềm tin, hi vọng ngày mai.
Phải chăng mùa xuân của đất trời đọng lại trong lộc non đã theo người cầm súng và người ra đồng, hay chính họ đã đem mùa xuân đến cho mọi miền của Tổ quốc thân yêu? Từ những suy nghĩ rất thực về đất nước, nhà thơ khái quát:
Lối điệp cấu trúc song hành với các điệp ngữ “Tất cả”, “như” kết hợp với từ láy tượng hình “hối hả”, “xôn xao” nhấn mạnh khí thế tưng bừng của đất nước vào xuân thể hiện không khí khẩn trương, niềm vui náo nức bâng khuâng của tâm hồn con người trước mùa xuân lớn lao của dân tộc. Nhà thơ đã khái quát được cả một thời đại của dân tộc. Nhịp điệu khẩn trương, tất bật của những con người Việt Nam trong giai đoạn mới, thời đại mới, trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa như tụ trong từ “hối hả”. Còn “xôn xao” lại bộc lộ tâm trạng náo nức rộn ràng. Ý thơ khẳng định một điều: không chỉ cá nhân nào vội vã mà cả đất nước đang hối hả, khẩn trương sản xuất và chiến đấu. Tất cả đều náo nức, rộn ràng trong mùa xuân tươi đẹp của thiên nhiên, của đất nước. Nhịp thơ sôi nổi như nhịp hành khúc cho thấy niềm tin tươi sáng, cái nhìn lạc quan của Thanh Hải về tiền đồ của dân tộc cho dù trong hoàn cảnh khó khăn lúc đương thời.
Những dòng thơ của Thanh Hải thổi vào lòng người một ngọn lửa sống nhắc nhở, thôi thúc con người nhìn đời lạc quan hơn, sống có trách nhiệm, gắn bó với quê hương, đất nước. Khổ thơ đã để lại một cảm nhận về sức sống mãnh liệt của mùa xuân và đất nước, đồng thời diễn tả sự sinh sôi phát triển và sự trỗi dậy bất tận đang bừng lên khắp nơi ở cả thiên nhiên, đất trời và con người khi xuân về.
Xúc cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước khi bước vào mùa xuân, nhà thơ Thanh Hải đã có cái nhìn sâu sắc và tự hào về lịch sử hơn bốn nghìn năm dân tộc:
Giọng thơ có sự thay đổi từ sôi nổi, hào hùng, mạnh mẽ sang trầm lắng, tha thiết. Thông qua hệ thống các tính từ “vất vả”, “gian lao”, nhà thơ suy ngẫm về truyền thống hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước của cha ông ta. Đó là một truyền thống hào hùng đầy vinh quang nhưng cũng không ít gian nan, vất vả. Với nghệ thuật nhân hóa, Tổ quốc như một người mẹ tần tảo,vất vả và gian lao, đã làm nổi bật sự trường tồn của đất nước. Để có được sự trường tồn ấy, giang sơn gấm vóc này đã thấm bao máu, mồ hôi và cả nước mắt của các thế hệ, của những tháng năm đằng đẵng lúc hưng thịnh, lúc thăng trầm. Nhưng dù trở lực có mạnh đến đâu cũng không khuất phục được dân tộc Việt Nam:
Chính những năm tháng khó khăn ấy, dân tộc mình đã khẳng được ý chí, sức mạnh và bản lĩnh. Đặc biệt, phép tu từ so sánh được nhà thơ sử dụng vô cùng đặc sắc, làm ý thơ hàm súc:
Sao là nguồn sáng bất diệt của thiên hà, là vẻ đẹp lung linh của bầu trời đêm, là hiện thân của sự vĩnh hằng trong vũ trụ. So sánh như thế, là tác giả khẳng định chiều dài lịch sử của dân tộc và đất nước trong quá khứ và hiện tại luôn có những biến cố thăng trầm nhưng chúng ta vẫn luôn cố gắng nỗ lực vươn lên. Từ đây, nhà thơ có những suy tư chiêm nghiệm về lịch sử dân tộc: Sức xuân của ngày hôm nay là sự kết tụ và phát huy sức xuân của dân tộc, dẫu phải trải qua muôn vàn khó khăn đất nước và con người Việt Nam vẫn tỏa sáng bất diệt. Điệp ngữ “đất nước” được nhắc lại hai lần thể hiện sâu sắc ý thơ: trải qua những gian truân, vất vả, đất nước vẫn toả sáng đi lên không gì có thể ngăn cản được. Qua đó, nhà thơ bộc lộ niềm tự hào sâu sắc, mãnh liệt về lịch sử hơn 4000 năm cũng như tiền đồ của dân tộc. Câu thơ năm chữ “Cứ đi lên phía trước” sử dụng nhiều thanh trắc tạo nên một âm hưởng khỏe khoắn gân guốc chắc nịch phù hợp với hình ảnh thơ đậm chất anh hùng. Âm thanh mùa xuân đất nước vang lên từ chính cuộc sống vất vả, gian lao mà tươi thắm đến vô ngần. Câu thơ như một lời khẳng định, một sự thể hiện ý chí và lòng quyết tâm và niềm tin sắt đá của nhà thơ và của cả dân tộc về tương lai tươi sáng, tốt đẹp của quê hương, đất nước.
Bài thơ được sáng tác trong lúc đất nước đang gặp muôn vàn gian lao thử thách nhưng giọng thơ vẫn vút cao chan chứa niềm tự hào, tin yêu vào sức sống, sức trỗi dậy của đất nước. Phải là một con người yêu quê hương đất nước tha thiết và giàu lòng lạc quan yêu đời thì Thanh Hải mới sáng tạo nên những dòng thơ sâu sắc như vậy. Điều này thật đáng quý vì nó gieo vào lòng người đọc lời nhắc nhở không bao giờ được chùn bước mà hãy cứ vươn lên.
Với việc sử dụng thể thơ năm chữ giàu nhạc điệu, bút pháp lãng mạn giàu sức gợi đậm chất sử thi và kết hợp khéo léo nhiều biện pháp tu từ và từ láy tượng hình, nhà thơ đã gợi tả hình ảnh đất nước vào xuân tràn đầy sức sống, qua đó thể hiện cái tôi Thanh Hải, niềm tin, niềm tự hào tha thiết về sức sống của dân tộc. Liên hệ với hoàn cảnh sáng tác, người đọc càng yêu hơn, quý hơn những tâm sự của nhà thơ Thanh Hải, một người nghệ sĩ tài ba, một người chiến sĩ, một công dân với tâm nguyện đẹp đẽ luôn sống thủy chung, gắn bó với đất nước.
Đoạn thơ không chỉ lay động trái tim độc giả bởi chất họa gợi cảm, bởi chất nhạc xao xuyến mà còn bởi niềm tin, niềm tự hào mãnh liệt vào sức sống của đất nước, khơi dậy trong ta ý chí quyết tâm không bao giờ chùn bước trước khó khăn thử thách trong cuộc sống.
Với “Mùa xuân nho nhỏ”, Thanh Hải đã góp vào nền thơ hiện đại Việt Nam một bài thơ xuân đẹp. Bài thơ cho thấy một hồn thơ trong trẻo, điệu thơ ngân vang, xúc động. Tình yêu mùa xuân gắn liền với tình yêu quê hương, đất nước được Thanh Hải diễn tả sâu sắc và cảm động. Thi phẩm lay động trái tim độc giả bởi chất họa gợi cảm, bởi chất nhạc xao xuyến và đã làm sáng lên trong ta niềm tin, niềm tự hào mãnh liệt vào sức sống của đất nước, khơi dậy trong ta ý chí quyết tâm không bao giờ chùn bước trước khó khăn thử thách trong cuộc sống.
Đã từ lâu, mùa xuân vốn là đề tài quen thuộc trong thơ ca, là nguồn thi hứng dạt dào để người nghệ sĩ viết lên những trang thơ đong đầy cảm xúc. Cũng lấy cảm hứng từ mùa xuân, Thanh Hải đã viết lên bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” . Bài thơ bộc lộ cảm xúc của tác giả trước mùa xuân của thiên nhiên đất nước và khát vọng đẹp đẽ muốn làm một “mùa xuân nho nhỏ” dâng hiến cho đời. Đặc biệt ba khổ thơ đầu của bài thơ đã mang đến cho người đọc cảm nhận về mùa xuân của thiên nhiên và mùa xuân đất nước, con người.
Mở đầu bài thơ, là hình ảnh mùa xuân của thiên nhiên. Bức tranh thiên nhiên được mở ra bằng hình ảnh “dòng sông xanh “,” bông hoa tím biếc” . Đây là những hình ảnh mùa xuân của thiên nhiên tươi đẹp, tràn đầy sức sống. Bên cạnh hình ảnh thiên nhiên, bức tranh xuân còn có sự xuất hiện của âm thanh tươi đẹp, rộn ràng. Tiếng chim chiền chiện hót vang trời là âm thanh rộn ràng, náo nhiệt báo hiệu xuân về. Đứng trước thiên nhiên tươi đẹp, tâm trạng của tác giả rất trân trọng, nâng niu . Nhà thơ “đưa tay hứng”, nâng niu, trân trọng tất cả những gì tươi đẹp của sự sống. Tác giả say đắm trong mùa xuân của thiên nhiên, đất nước với tâm thế đón nhận, trân trọng từng sự sống của thiên nhiên.
Từ mùa xuân của thiên nhiên, đất trời, nhà thơ chuyển sang cảm nhận về mùa xuân của đất nước. Mùa xuân của đất nước như tươi đẹp hơn, xuân sắc hơn vì ở đó có sự góp mặt của những người lao động . Bằng cảm xúc dạt dào, nhà thơ đã liên tưởng đến những người chiến sĩ ra trận mà trên vai, trên lưng họ có cành lá nguỵ trang. Những cành lá ấy mang lộc biếc, chồi non, mang theo mùa xuân của thiên nhiên, cây cỏ. Như vậy, người lính khi ra trận, không chỉ có hành ngũ, tư trang mà họ còn mang theo sức sống của cả dân tộc, mang theo cả mùa xuân của thiên nhiên, đất trời. Không chỉ nói đến những người lính, mùa xuân trong thơ Thanh Hải còn có sự xuất hiện của những người lao động bình thường, đó là những người nông dân trên đồng ruộng. Nói về những người lao động là nói đến những người ươm mầm cho sự sống, ươm những hạt mầm non trên những cánh đồng quê hương. Chính họ đã lao động và tạo nên sức sống của mùa xuân thiên nhiên, đất nước. Bằng một tâm hồn tinh tế, nhà thơ nhận ra “tất cả như hối hả/ tất cả như xôn xao “. Sức sống của đất nước, của dân tộc, cũng được tạo nên từ sự hối hả, náo nức của người cầm súng, người ra đồng. Và từ đây, nhà thơ xuôi chiều dài lịch sử để nghĩ tới một đất nước bốn nghìn năm văn hiến lâu đời, một đất nước mà nhà thơ tin tưởng rằng nó sẽ như vì sao sáng rực, vụt bay trên bầu trời rộng lớn. Tất cả điều đó đã làm nổi bật lên cảm xúc lạc quan, tin tưởng, sự ngợi ca sức sống quê hương đất nước, dân tộc khi mùa xuân về của tác giả.
Với ba khổ thơ, tác giả đã vẽ ra trước mắt người đọc mùa xuân của thiên nhiên, đất nước đầy tươi đẹp, rộn ràng . Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời, thể hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ được cống hiến cho đất nước, góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc.
Có thể nói, ba khổ thơ đầu của bài “Mùa xuân nho nhỏ” là ba khổ thơ hay mang nhiều ý nghĩa. Với ba khổ thơ đầu, tác giả đã mang đến cho người đọc cảm nhận hết sức tinh tế về mùa xuân của thiên nhiên, đất trời. Qua đó, đánh thức tình yêu thiên nhiên và ý thức trách nhiệm, ước muốn cống hiến một phần công sức nhỏ bé của mình góp phần làm rạng rỡ thêm mùa xuân của thiên nhiên, đất nước.
Thanh Hải là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam. Trong số những tác phẩm mà ông để lại cho bạn đọc thì nổi bật nhất có lẽ là “Mùa xuân nho nhỏ”. Thi phẩm đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên đẹp tuyệt vời của xứ Huế mộng mơ qua đó làm nổi bật nên hình ảnh của mùa xuân đất nước. Điều này được thể hiện rõ nét qua ba khổ thơ đầu “Mọc giữa…. phía trước”.
Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được ra đời trong hoàn cảnh rất đặc biệt trước khi nhà thơ sắp vĩnh biệt cuộc đời. Vậy mà bài thơ vẫn rất trẻ trung và đầy khát vọng cống hiến. Bài thơ được cấu tạo theo mạch cảm xúc dạt dào của tác giả. Bằng sự quan sát tinh tế các giác quan nhạy cảm nhưng hơn thế là cả một tấm lòng yêu quê hương Thanh Hải đã vẽ bức tranh xuân thật nhẹ nhàng đằm thắm giản dị nhưng hết sức thơ mộng:
“Mọc giữa dòng sông xanh
……. ……
Hót chi mà vang trời”
Khung cảnh mùa xuân dần dần được hiện ra với một vẻ đẹp thật bình dị, đơn sơ nhưng cũng không kém phần nên thơ và sâu sắc. Ở đây, mùa xuân của Thanh Hải đến với ta không rực rỡ kiêu sa với cành đào Hà Nội, với những nụ mai vàng đang phô trương sắc thắm, mà chỉ đơn giản là một bông hoa tím đang mọc lên giữa dòng sông nước xanh như lọc. Cành hoa nghiêng mình xuống mặt nước tựa như gương ấy để nổi bật lên trên một khung trời được in bóng dưới lòng sông, với màu sắc thật nhẹ, thật hài hòa mà cũng rất dễ thương, Thanh Hải đã tạo nên cho bức tranh mùa xuân của mình một nét gì đó vô cùng độc đáo. Và bức tranh ấy lại càng được đẹp hơn, có “hồn” khi cái màu tím kia được nhà thơ tô đậm lên thành “tím biếc”. Gam màu ấy đã được tô vẽ vào bức tranh thật khéo léo, tài tình, làm cho người đọc chúng ta có thể hình dung ra ngay trước mắt cả một bông hoa tím biếc, thật nhỏ, thật xinh, nhưng dường như cũng có đủ khả năng để nhuộm tím cả bầu trời, cả không gian mùa xuân đang căng tràn sức sống. Cái màu tím ấy lan ra, chơi vơi, và khẽ lay động theo những ngọn gió xuân đang thổi lên từ lòng sông xanh mát rượi. Cảnh vật mùa xuân trong bài thơ có lẽ cũng bình dị, giản đơn, và thâm trầm, tĩnh lặng như vùng đất miền Trung quê hương tác giả. Xứ Huế vốn nổi tiếng mộng mơ với núi Ngự sông Hương, với những điệu hò mái nhì mái đẩy, giờ lại càng thêm xinh đẹp dưới ngòi bút tô vẽ của nhà thơ…
Bức tranh thiên nhiên kia nãy giờ đang tĩnh lặng như chất chứa suy tư, chợt sinh động và “sống” hẳn lên vì một nét đâm ngang của cánh chim chiền chiện:
Bức tranh ấy giờ đây chợt đẹp hẳn lên và cũng độc đáo hơn vì có sự pha trộn giữa hai sắc màu: hài hoa (xanh, tím) và lung linh rực rỡ (long lanh). Câu thơ giờ cũng mang một nét gì đó lạ lùng chừng như là vô lí; con chim chiền chiện mà lại hót đến vang cả trời! Thực ra, khoảng trời ấy chính là khoảng không gian của riêng tác giả, trong tim tác giả, vì vậy mà chỉ có một mình tác giả mới cảm nhận được và nghe thấy được mà thôi. Tâm hồn nhà thơ nhỏ bé trước đất trời, chính vì vậy mà tất cả mọi cảnh của tâm hồn ấy cũng trở nên nhỏ xinh và dễ thương đến lạ: con chim nhỏ của mùa xuân nhỏ trong một khoảng không gian nhỏ. Nhưng chính cái “nhỏ” ấy đã phần nào tạo nên được nét độc đáo riêng trong thế đối lập của câu thơ. Tâm hồn ấy, trái tim ấy tuy nhỏ nhưng chỉ chính nó mới cảm nhận được hết mùa xuân của đất trời và vũ trụ thiên nhiên… Và giờ đây tiếng chim lại vang lên, tiếng chim quen thuộc của đồng quê dân dã:
(Tố Hữu)
Say mê với tiếng chim, trước mắt nhà thơ dường như xuất hiện những giọt long lanh đang nhẹ nhàng rơi xuống: “Từng giọt long lanh rơi/ Tôi đưa tay tôi hứng!”.
“Từng giọt long lanh”… giọt gì? Giọt nắng, giọt sương, giọt hạnh phúc, hay là giọt xuân đang êm đềm rơi xuống từ cánh chim chiền chiện nhỏ đang tung mình bay lượn để ban phát mùa xuân đến cho mọi người? Nhưng chính xác hơn nhất có lẽ là giọt tiếng chim, giọt tiếng chim mà chỉ có một mình tác giả cảm nhận được, và “trông thấy” được! Nhìn được những vật mà mắt thường không thấy có lẽ do Thanh Hải đang nhìn bằng con mắt của một nhà thơ. Tiếng chim thì nghe, nhưng ở đây tác giả lại nhìn. Hiện tượng chuyển đổi cảm giác này lẽ ra chỉ có được ở những người say. Câu thơ đang vô lí giờ lại bỗng nhiên hợp lí. Quả thật Thanh Hải đang say, ông say trước khung cảnh thiên nhiên vào mùa xuân thật xinh tươi, đẹp đẽ, say vì nàng chúa xuân quá diễm lệ, yêu kiều. Và từ đó trân trọng, thật nhẹ nhàng, tác giả đã đưa tay ra hứng để đón lấy những điều may mắn, cái tốt đẹp và cái “lộc” của mùa xuân đã ban tặng cho tâm hồn của mỗi con người, và đặc biệt là cho tác giả.
Nếu khổ thơ thứ nhất của bài thơ đã mở ra khung cảnh mùa xuân của thiên nhiên thì khổ thơ thứ hai đã mở ra khung cảnh mùa xuân của đất nước.
Có thể thấy, nhà thơ Thanh Hải đã cảm nhận và tái hiện khung cảnh mùa xuân của đất nước qua hai hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng là “người cầm súng” và “người ra đồng”. Người đọc dễ dàng nhận thấy, “người cầm súng” và “người ra đồng” là hai hình ảnh biểu tượng cho hai nhiệm vụ chiến lược quan trọng nhất của đất nước ta ở thời điểm bài thơ ra đời đó chính là cùng lúc vừa chiến đấu ở tiền tuyến vừa lao động, sản xuất để xây dựng hậu phương vững chắc. Đặc biệt, hình ảnh “người cầm súng” lại đi liền với hình ảnh “lộc giắt đầy quanh lưng” đã gợi cho người đọc liên tưởng đến những vòng lá ngụy trang của người chiến sĩ trên đường hành quân ra trận như đang nảy lên những chồi non xanh mơn mởn cùng các anh ra trận, mùa xuân như đang về trên khắp mọi nơi, mọi nẻo đường. Còn hình ảnh “người ra đồng” được sử dụng kết hợp với hình ảnh “lộc trải dài nương mạ” gợi liên tưởng đến những cánh đồng tươi tốt, xanh thẳm, màu mỡ được những bàn tay khéo léo, chăm chỉ, cần mẫn của những người lao động chăm bón và tạo nên. Tất cả những hình ảnh và sự kết hợp độc đáo ấy đã gợi lên một bức tranh mùa xuân tràn đầy sắc xanh, tươi mới và tuyệt diệu. Thêm vào đó, khổ thơ còn sử dụng điệp từ “mùa xuân” và điệp từ “lộc” đã gợi lên quang cảnh mùa xuân tươi đẹp đang vươn ra những chồi lộc non và đồng thời cũng gợi lên thành quả của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khổ thơ khép lại với những dòng thơ sử dụng điệp từ “tất cả” đi liền với những từ láy “hối hả”, “xôn xao” làm cho nhịp thơ trở nên gấp gáp, gợi một nhịp sống sôi động, hối hả, khẩn trương trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước.
Và để rồi, trước khung cảnh tươi đẹp và tràn đầy sức sống ấy của mùa xuân đất nước tác giả đã bày tỏ niềm tự hào, niềm tin của mình vào một tương lai ngày mai tươi sáng, tốt đẹp.
Nhà thơ Thanh Hải đã nhắc lại chặng đường bốn nghìn năm của đất nước thông qua hệ thống các tính từ “vất vả”, “gian lao” từ đó có thể cho thấy chặng đường dựng nước và giữ nước của dân tộc ta là một chặng đường đầy những gian nan, khó khăn và thử thách, mất mát. Và cũng trong chính những năm tháng khó khăn ấy, dân tộc mình đã khẳng được ý chí, sức mạnh và bản lĩnh. Đặc biệt hình ảnh so sánh “đất nước như vì sao” đã mở ra nhiều liên tưởng độc đáo và giàu ý nghĩa. Hình ảnh so sánh ấy vừa gợi đến nguồn sáng trường tồn mãi với không gian, thời gian, vừa gợi lên niềm tin của tác giả về một tương lai tươi sáng, rộng mở của đất nước với khí thế mạnh mẽ không gì cản nổi. Cùng với đó, cấu trúc song hành “đất nước bốn ngàn năm”, “đất nước như vì sao” đã diễn tả sự vận động đi lên của lịch sử và là lời khẳng định về sự trường tồn vĩnh cửu của đất nước. Cụm từ “cứ đi lên phía trước” khép lại khổ thơ như một lời khẳng định, một sự thể hiện ý chí và lòng quyết tâm và niềm tin sắt đá của nhà thơ và của cả dân tộc về tương lai tươi sáng, tốt đẹp của quê hương, đất nước.
Càng đọc thơ Thanh Hải, ta càng thêm cảm thấy thú vị và say sưa. Nhất là sau khi đọc “Mùa xuân nho nhỏ”, ta như thấy được cả men rượu của mùa xuân đang lan tỏa vào đất trời, hòa vào trong lòng mùa xuân và trong lòng người đọc. Đây quả thật đúng là mùa một “mùa xuân nho nhỏ” mà Thanh Hải đã dâng tặng cho đời. Nếu chúng ta biết rằng Thanh Hải viết bài thơ này khi ông đang nằm trên giường bệnh, ông viết không phải vào dịp xuân… và chỉ ít tháng thôi ông đã ra đi mãi mãi… dù sao, bông hoa tím biếc chung với đời, dòng sông xanh biếc của hi vọng, của niềm tin với đời vẫn là hình ảnh nhỏ nhẹ nói với ta bao điều…
Mùa xuân là để tài bất tận của thơ ca. Song, cái cảm nhận về mùa xuân của các nhà thơ theo thời gian có nhiều thay đổi. Đối với Mãn Giác Thiền sư, một cao tăng nổi tiếng thời Lý, mùa xuân mang một tính triết lý sâu sắc:
Còn đối với những nhà thơ trước cách mạng, mùa xuân gợi lên một nét sầu cảm:
Nhưng đối với nhà thơ Thanh Hải, mùa xuân mang một nét đẹp đáng yêu tươi thắm; gợi lên trong lòng người đọc nhiều hình ảnh rạo rực tươi trẻ. Vì thế, mùa xuân trong thơ của Thanh Hải là biểu tượng cho sức sống mạnh mẽ của quê hương, dân tộc. Tất cả đã được thể hiện rõ nét trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”, một bài thơ đặc sắc được nhà thơ viết không lâu trước khi qua đời.
Người xưa có câu: “Thi trung hữu họa”. Thơ ca vẽ nên những bức tranh tuyệt đẹp của cuộc sống. Mở đầu bài thơ, Thanh Hải đã phác họa nên một bức tranh xuân giản dị mà tươi đẹp:
“Dòng sông xanh” gợi nhắc hình ảnh những khúc sông uốn lượn của dải đất miền Trung quanh co, đó có thể là dòng sông Hương thơ mộng, một vẻ đẹp lắng đọng của xứ Huế mộng mơ.Trên gam màu xanh lơ của dòng sông thơ mộng, nổi bật lên hình ảnh “một bông hoa tím biếc”. Không có màu vàng rực rỡ của hoa mai, cũng không có màu đỏ thắm của hoa đào, mùa xuân của Thanh Hải mang một sắc thái bình dị với màu tím biếc của bông hoa lục bình. Đây là một hình ảnh mang đậm bản sắc của cố đô Huế. Không biết tự bao giờ màu tím đã trở thành màu sắc đặc trưng của con người và đất trời xứ Huế. Màu tím biếc gợi nhớ hình ảnh những nữ sinh xứ Huế trong những bộ áo dài màu tím dịu dàng thướt tha. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo ngữ, đưa động từ “mọc” lên đầu câu như một cách để nhấn mạnh vẻ đẹp tươi trẻ, đầy sức sống của mùa xuân thiên nhiên. Trong bức tranh mùa xuân của TH, không chỉ có hình ảnh, mà còn có âm thanh xao xuyến, ngân nha của con chim chiền chiện. Tiếng chim lảnh lót vang lên làm xao động cả đất trời, làm xao xuyến cả tâm hồn thi sĩ nhạy cảm của nhà thơ. Những từ ngữ cảm thán “ơi, hót chi” đã thể hiện rõ nét cảm xúc của nhà thơ. Mùa xuân của thiên nhiên đã đem đến cho nhà thơ một cảm giác ngây ngất. Mùa xuân ấy không có gì khác lạ, vẫn là một mùa xuân rất giản dị trên quê hương xứ Huế của nhà thơ. Nhưng nhà thơ bỗng nhận ra vẻ đẹp lạ kỳ của mùa xuân, một vẻ đẹp mà bấy lâu nhà thơ không để ý. Phải chăng vì đây là lần cuối cùng được ngắm nhìn mùa xuân quê hương nên nhà thơ cảm thấy mùa xuân ấy đẹp hơn, tươi sáng hơn ?
Say sưa, ngây ngất trước vẻ đẹp giản dị và nên thơ của mùa xuân, nhà thơ bồi hồi xúc động:
“Giọt long lanh” là giọt mưa xuân, giọt nắng vàng hay giọt sương sớm ? Theo mạch cảm xúc của nhà thơ thì có lẽ đây là giọt âm thanh của tiếng chim ngân vang. Bằng một cảm nhận tinh tế, nhà thơ đã hình tượng hóa tiếng chim thành một sự vật có hình dáng, đây là một sự sáng tạo rất mới mẻ chỉ có thể có được nhờ tâm hồn nhạy cảm của một thi sĩ. Như vậy, chỉ bằng ba nét vẽ: dòng sông xanh, bông hoa tím và tiếng chim ngân vang khắp đất trời, nhà thơ đã phác họa nên một bức tranh xuân tuyệt đẹp trên cố đô Huế.
Từ vẻ đẹp thanh khiết của mùa xuân thiên nhiên, nhà thơ liên hệ đến mùa xuân của đất nước, mùa xuân của cách mạng:
Bốn câu thơ mang cấu trúc song hành thể hiện rõ hai nhiệm vụ của nhân dân: chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và sản xuất làm giàu nước nhà. Hai nhiệm vụ ấy đặt nặng lên vai của người chiến sĩ – “người cầm súng” và người nông dân – “người ra đồng”. Nét đặc sắc của đoạn thơ là việc sáng tạo hình ảnh “lộc”. “Lộc” là chồi non, cành biếc; “lộc” còn tượng trưng cho sự may mắn, niềm an lành trong năm mới. Đối với người chiến sĩ, “lộc” là cành lá ngụy trang che mắt quân thù. Đối với người nông dân, “lộc” là những mầm mạ non trải dài trên đồng ruộng bát ngát, báo hiệu một mùa bội thu. Người chiến sĩ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc sẽ đem về “lộc” là sự an lành niềm vui, niềm tự hào chiến thắng cho dân tộc. Người nông dân gieo trồng lúa trên đồng ruộng sẽ đem về “lộc” là những hạt gạo trắng ngần, những bát cơm ngon ngọt cho đồng bào cả nước. Cả dân tộc bước vào xuân với khí thế khẩn trương và náo nhiệt:
Bằng cách sử dụng từ láy “hối hả-xôn xao” cùng với điệp từ, tác giả đã mang đến cho câu thơ một nét rộn ràng, nhộn nhịp. “Hối hả” nghĩa là vội vã, khẩn trương. “Xôn xao” là có nhiều âm thanh trộn lẫn vào nhau, làm cho náo động. Từ những âm thanh xôn xao và sự hối hả của con người, nhà thơ lại suy tư về sự phát triển của đất nước qua bốn ngàn năm lịch sử:
Chặng đường lịch sử của đất nước qua bốn ngàn năm trường tồn đã trải qua biết bao thăng trầm, với bao nhiêu là “vất vả và gian lao”. So sánh đất nước với vì sao sáng, nhà thơ đã thể hiện niềm tự hào đối với đất nước và dân tộc. Sao là nguồn sáng bất diệt, là vẻ đẹp vĩnh hằng trong không gian và thời gian. Ngôi sao sáng đã trở thành vẻ đẹp lộng lẫy trên lá cờ VIệt Nam, trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp ngời sáng của con người và đất nước Việt Nam. Đất nước vẫn không ngừng phát triển, vẫn “cứ đi lên phía trước” để sánh vai cùng các cường quốc năm châu trên thế giới. Đoạn thơ thể hiện ý chí vươn lên không ngừng của con người và dân tộc Việt Nam.
Tình yêu thiên nhiên, sự xúc động trước vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân cách mạng và khát vọng cống hiến đã được Thanh Hải gửi gắm qua bài thơ “mùa xuân nho nhỏ”. Tuy là tác phẩm được viết không lâu trước khi nhà thơ qua đời nhưng bài thơ vẫn để lại trong lòng bao thế hệ bạn đọc những cảm xúc sâu lắng khó phai mờ. Và, Bài thơ vẫn sẽ tiếp tục trường tồn cùng với những bước đi lên của đất nước, gợi nhắc cho những thế hệ trẻ một cách sống đẹp: góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc, để đất nước ta sẽ mãi tươi đẹp như trong tiết xuân. Thế mới biết, cuộc đời của con người thì có hạn nhưng những giá trị tinh thần mà con người để lại cho đời sau thì có giá trị vĩnh hằng.
“Mùa xuân nho nhỏ” được viết vào tháng 11 năm 1980. Đây là thời điểm tác giả Thanh Hải đang nằm trên giường bệnh, chống chọi với căn bệnh hiểm nghèo cũng là đối mặt với cái chết đang hiện hữu cận kề. Tuy vậy, qua con mắt của thi nhân và khối óc tưởng tượng của một con người yêu thiên nhiên, cảnh vật sâu sắc, Thanh Hải đã sáng tạo nên những vần thơ thật ý nghĩa. Ngay ở khổ thơ đầu tiên đã toát lên được tình yêu thiên nhiên đất trời mãnh liệt:
Khổ thơ như một bức tranh thiên nhiên đầy sắc xuân. Đó là bức tranh có những nét chấm phá, phác họa vô cùng tinh tế. Từ “mọc” xuất hiện ngay từ đầu câu thơ cho ta một ấn tượng mạnh. Một động từ mạnh xuất hiện như thể hiện sự vươn dậy, sự khỏe khoắn, một sức sống như tiềm tàng bí ẩn bỗng chốc vụt trỗi dậy. Người đọc đặt ra câu hỏi “Cái gì Mọc giữa dòng sông xanh”? Điều này gây tò mò đối với độc giả thì ngay lập tức, câu thơ thứ hai đã giải đáp điều ấy: “Một bông hoa tím biếc”. Hai câu thơ có sử dụng biện pháp đảo ngữ. Lẽ ra phải là:
Việc đảo ngữ có tác dụng giúp câu thơ thêm phần đặc biệt, ấn tượng. Hai câu thơ gợi cho ta thấy với không gian mênh mông trời nước, giữa dòng sông với làn nước trong xanh, bỗng nhiên mọc lên một bông hoa. Bông hoa ấy có màu sắc tím biếc. Tuy không phải là sắc màu đỏ rực như đỏ, xanh ngắt mà là màu tím biếc. Màu tím làm nên sự thơ mộng, nhẹ nhàng, làm nên sắc xuân. Đó là vẻ đẹp tinh khôi, sáng trong mà cũng rất đỗi mộng mơ. Đó là màu tím của hoa, của thiên nhiên hay chính là sự tượng trưng cho xứ Huế thơ mộng. Trên nền xanh của dòng sông, màu hoa tím biếc, tưởng chừng như bức họa ấy tĩnh lại. Nhưng ngay sau đó là sự xuất hiện của tiếng động:
Advertisement
Trên bức tranh ấy có tiếng chim hót vang trời. Với thán từ gọi đáp “Ơi” mang đến sự gần gũi, đậm ngôn ngữ Huế. Ngôn ngữ ấy mang đến sự nhẹ nhàng, tình cảm và có nét vô cùng đáng yêu. Tiếng chim hót làm cho bức tranh chuyển trạng thái từ tĩnh sang động. Mùa xuân trong thơ của Thanh Hải là một nét đẹp đằm thắm, nhẹ nhàng, mơn man, trong sáng và đầy tinh khôi. Tất cả đều đang ở độ tràn trề sức sống. Trước vẻ đẹp thiên nhiên ấy, tác giả không khỏi bộc lộ rõ nét cảm xúc của bản thân:
“Giọt long lanh” ở đây được hiểu với rất nhiều nghĩa khác nhau. Đó có thể là giọt sương trong buổi sớm ban mai, giọt mưa còn vương lại trên mái hiên hè sau mỗi trận mưa rả rích đêm khuya hay đó cũng có thể là giọt mang ý nghĩa tượng trưng cho hạnh phúc, cho sức sống tràn đầy. Với sự chuyển đổi cảm giác linh hoạt trong câu thơ đã đem lại sự thú vị cho câu thơ. Câu thơ cuối của đoạn đầu bài thơ lại diễn tả rõ nét hơn cảm giác ấy: “Tôi đưa tay tôi hứng”. Động từ “hứng” gợi cho ta thấy sự trân trọng. Sự trân trọng của tác giả trước vẻ đẹp của thiên nhiên, của đất trời.
Bài thơ tiếp tục với những cảm xúc trực tiếp, hồn nhiên, trong trẻo trước vẻ đẹp và sức sống của mùa xuân thiên nhiên tươi xanh, gieo vào lòng người sức sống tràn trề của hoa tươi, cỏ biếc. Từ vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, đất trời, nhà thơ nghĩ ngợi về mùa xuân của đất nước, mùa xuân trong lòng người:
Mùa xuân của đất nước với hai hình ảnh rõ nét nhất là “người cầm súng”, “người ra đồng”. Hai hình ảnh ấy biểu trưng cho hai nhiệm vụ chiến đấu và lao động xây dựng đất nước. Một mặt, ý thơ nói lên một tinh thần yêu nước của mỗi con người; mặc khác, ý thơ cũng khắc họa rõ hình ảnh các chiến sĩ và các nông dân vẫn miệt mài làm việc chỉ mong đất nước được bình yên và gia đình được ấm no. Mượn ảnh “lộc” non của mùa xuân nhằm ca ngợi người cầm súng, người ra đồng quả thực rất mới lạ, tinh tế và tài tình của nhà thơ.
Có phải mùa xuân của đất trời đọng lại trong hình ảnh lộc non đã theo “người cầm súng”, “người ra đồng” hay chính là họ đã đem mùa xuân đến mọi nơi trên đất nước? Con người, trong cuộc sống lao động và chiến đấu đang góp phần làm nên một mùa xuân yên ổn, ấm no cho dân tộc. Không khí mùa xuân với nhịp điệu vừa hối hả vừa những âm thanh con xao. Một không khí khẩn trương lại sôi động của cuộc sống mới. Đất nước đã độc lập nhưng kẻ thù vẫn còn âm mưu phá hoại. “Cầm súng” và “ra đồng” khẳng định tư thế chủ động, tinh thần sẵn sàng của nhân dân trước kẻ thù. Cuộc đời đã đổi mới nhưng khó khăn, gian khổ vẫn còn. Đất nước vẫn cần nhiều cống hiến, nhiều hy sinh hơn nữa để vươn lên.
Chắc chắn rằng, hình ảnh “lộc” kia là sức sống, là tuổi trẻ, sức thanh xuân tươi mới đầy mơ ước, lí tưởng, đầy những hoài bão và khát vọng cống hiến của tuổi trẻ, sôi nổi trong mỗi tâm hồn con người – tâm hồn của người lính dũng cảm, kiên cường nơi lửa đạn bom rơi – tâm hồn của người nông dân cần cù,hăng say tăng gia sản xuất. “Lộc” chính là thành quả hôm nay và niềm tin, hy vọng ngày mai. “lộc” cùng chính là niềm vui mới của con người trong mùa xuân tràn trề niềm vui và sức sống, là niềm tự lớn lao, là khát vọng cống hiến, hy sinh để giữ vững mùa xuân của dân tộc.
Sau bao nhiêu năm tháng vất vả, đau thương, hôm nay, dân tộc ta đón chào mùa xuân bằng một tấm lòng yêu nước nồng nhiệt. Mỗi con người yêu nước một cách sâu sắc, xem đất nước như một điều gì đó thiêng liêng quá thể:
“Bốn nghìn năm” vĩnh tồn, đất nước như những vì sao càng ngắm nhìn càng thấy tỏa sáng, càng thêm tự hào. Một quá trình vất vả và gian lao để có thể tồn tại lâu như thế. Ta cũng có thể hiểu rằng tác giả mong muốn đất nước ta sẽ có một tầm nhìn lạc quan và tươi sáng. Mong muốn rằng tương lai đất nước sẽ ngày một tỏa sáng hơn. Câu thơ “Cứ đi lên phía trước” nghe thấy cứ như một câu khuyên nhủ ta cứ bước đi. Chỉ cần một câu nói ấy đã có thể khích lệ tinh thần cho các chiến sĩ bên ngoài chiến trường. Điều đó cũng thể hiện dân tộc Việt Nam yêu nước một cách sâu sắc và cũng biết quan tâm tới nhau. Tình cảm giữa người với người đã được hiện hữu đâu đây. Đó là một điều tuyệt vời mà Thanh Hải đã ẩn chứa trong bài thơ. Ý thơ khẳng định một điều: không chỉ cá nhân nào vội vã mà cả đất nước đang hối hả, khẩn trương sản xuất và chiến đấu. Tất cả đều náo nức, rộn ràng trong mùa xuân tươi đẹp của thiên nhiên, của đất nước. Với nghệ thuật nhân hóa, Tổ quốc như một người mẹ tần tảo,vất vả và gian lao, đã làm nổi bật sự trường tồn của đất nước. Để có được sự trường tồn ấy, giang sơn gấm vóc này đã thấm bao máu, mồ hôi và cả nước mắt của các thế hệ, của những tháng năm đằng đẵng lúc hưng thịnh, lúc thăng trầm.
Qua lời thơ giản dị mà đằm thắm yêu thương, dạt dào tin tưởng, ta cảm nhận được niềm tấm lòng gắn kết của tác giả với tương lai rạng ngời của dân tộc Việt Nam. Âm thanh mùa xuân đất nước vang lên từ chính cuộc sống vất vả, gian lao mà tươi thắm đến vô ngần. Hai khổ thơ đã khắc họa nên một khung cảnh mùa xuân tươi xanh trong thời kỳ chiến đấu cực khổ. Biết bao năm tháng trôi đi nhưng ta vẫn cứ mãi lưu luyến mùa xuân. Một mùa xuân hạnh phúc cuốn trôi hết tất cả nỗi muộn phiền của mỗi con người. Đó là khúc ca đầy tin tưởng vào nhân dân và tương lai đất nước của nhà thơ trong những ngày tháng cuối của cuộc đời.
Thanh Hải là bút danh của nhà thơ Phạm Bá Ngoãn, quê thuộc Phong Điền – Thừa Thiên Huế. Ông là nhà văn tài hoa, là người có công lớn trong việc thắp sáng ngọn lửa thi ca thời kì kháng chiến chống Mỹ. Thơ ông thường giàu âm điệu, nhạc điệu, cảm xúc, ngôn ngữ trong sáng, chân thành và lắng đọng. Thơ thanh hải thường ngắn gọn chứ không dài dòng nhưng lại diễn tả nội tâm rất sâu sắc, nhiều ý nghĩa. Ông sáng tác rất nhiều bài thơ hay để lại cho đời. Một trong những tác phẩm thơ ca nổi bật nhất phải kể đến bài Mùa Xuân Nho Nhỏ với giọng thơ nhẹ nhàng, tinh tế, lời thơ ngắn gọn gọn xúc tích nhưng nhiều cảm xúc. Nhất là 3 khổ đầu bài thơ nói về mùa xuân, con người và đất nước rực rỡ trong mùa xuân.
Khổ đầu tiên bài thơ, thanh hải miêu tả về mùa xuân xứ Huế, mùa xuân độc lập đầu tiên của đất nước, mùa xuân hiện lên với khung cảnh vô cùng thơ mộng nhẹ nhàng:
Hình ảnh đầu tiên mà chúng ta cảm nhận về mùa xuân trong thơ thanh hải là màu sắc. Màu sắc trong thơ thanh hải cũng rất lạ. Đó là màu xanh của dòng sông và mùa tím biếc của bông hoa. Không phải là một rừng hoa, một vườn hoa thơm ngát đủ sắc màu mà chỉ là một bông hoa màu tím biếc vô cùng đặc biệt. Ta cảm giác bức tranh trong xanh đẹp vô ngần với dòng sông xanh biếc mùa xuân, hiện lên đó là một bông hoa giữa dòng sông ấy với màu tím biếc vô cùng ấn tượng. Một số bài giảng cho rằng đó là hoa súng, một số cho rằng đó là hoa lục bình. Tuy nhiên, hiểu thê thì cũng chưa hoàn toàn đung, bởi vì song hương lúc nào cũng tấp nập thuyền qua lại, làm sao có một bông hoa mọc lạc lõng giữa dòng sông như vậy? Phải chăng, bông hoa đó chính là hình ảnh của một cô gái đẹp mặc áo dài Huế màu tím. Đây là màu rất đặc trưng ở Huế. Chính vì hình ảnh này mà đã tạo nên cảm hứng sáng tác cho bài thơ chăng? Nếu hiểu như thế thì sẽ thấy bức tranh có sự hòa quyện giữa con người và thiên nhiên rất đẹp, rất hài hòa, làm cho màu sắc thiên nhiên càng thêm lung linh huyền diệu.
Nếu như chúng ta cảm nhận hình ảnh thiên nhiên hai câu đầu là sự hòa quyện giữa con người và thiên nhiên chúng ta sẽ càng hiểu vì sao hai câu sau tác giả lại muốn đưa tay ra hứng. Chúng ta có thể hiểu hành động đưa tay ra hứng là hứng từng tiếng chim vì ở trên là hình ảnh tiếng chim chiền chiện hót vang trời. Nếu hiểu như thế thì chúng ta sẽ thấy có sự chuyển đổi cảm giác ở đây. Đó là từ cảm nhận âm thanh chuyển sang cảm nhận hình khối, từng giọt long lanh chính là hình khối, là màu sắc huyền ảo. Có lẽ đây chính là sự liên kết chuyển đổi cảm xúc rất hay mà chỉ có Thanh Hải mới nghĩ ra được. Kết cấu thơ rất chặt chẽ, liền mạch, có ánh sáng, màu sắc có cả âm thanh và hình khối. Con người không chỉ sử dụng thị giác, thính giác mà còn phải sử dụng xúc giác để cảm nhận mọi vẻ đẹp của mùa xuân.
Không chỉ tác giả đang ngây ngất giữa mùa xuân mà người đọc cũng đang ngây ngất trước vẻ đẹp mùa xuân qua ý thơ. Đất trời như hòa vào mùa xuân ngập tràn màu xanh, tiếng hát và cảm xúc. Đọc đoạn thơ đầu tiên ta cảm thấy như một khúc nhạc rất hay, cảm xúc, một khúc nhạc về bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, với màu sắc hài hòa, âm thanh nhịp nhàng, hình khối rõ ràng, cảm xúc thăng hoa.
Nếu khổ thơ đầu là nói về mùa xuân, cảm nhận của nhà thơ về mùa xuân, thì sang khổ thơ thứ hai chúng ta cảm thấy mùa xuân thực sự đã về, ngập tràn trên khắp nẻo đường, con người. Đặc biệt mùa xuân qua hình ảnh người lính, và người lao động:
Đây chính là mùa xuân đầu tiên của đất nước khi giải phóng, mùa xuân hạnh phúc và mùa xuân tri ân. Đó là tri ân những người lính và những người lao động. Họ chính là hai lực lượng lớn nhất và đóng góp nhiều nhất cho cuộc kháng chiến trường kì. Chính họ đã góp phần lớn lao tạo nên lịch sử. Ta có thể hình dung ra hình ảnh người lính với những cành cây dắt ngang lưng đang đâm chồi nảy lộc, đó là sự ngụy trang trong chiến trường, nơi rừng núi nhưng nó cũng là hình ảnh mùa xuân thật đẹp, cảm động và ý nghĩa. Ta cũng nhìn thấy hình ảnh mùa xuân trải dài khắp cách đồng xanh mướt thấp thoáng bóng dáng những người lao động. Mùa xuân trở nên thật sinh động gần gũi với con người và thiên nhiên, mùa xuân trở nên đầy ý nghĩa và trọn vẹn.
Trong khung cảnh mùa xuân ấy, tác giả đưa vào những từ láy như “hối hả” “xôn xao” khiến cho bức tranh trở nên sinh động, vội vã hơn bao giờ hết. Có lẽ đó chính là cảm xúc của con người trước mùa xuân lịch sử. Ai cũng hối hả, cũng xôn xao, ai cũng háo hức vui vẻ hạnh phúc và chờ đợi.
Từ hình ảnh con người tác giả chuyển ngòi bút mình sang cảm nhận mùa xuân của đất nước. Không chỉ con người mà đất nước cũng chuyển mình, cũng đang ngập tràn mọi trạng thái cảm xúc của hạnh phúc. Đất nước dưới ngòi bút của Thanh Hải vô cùng cũng mạnh mẽ, dù trải qua nghìn năm vất vả gian lao nhưng vẫn không ngừng tiến về phía trước với một niềm tin mãnh liệt. Đất nước Việt Nam đã từng phải oằn mình đau khổ nghìn năm đô hộ của Trung Quốc, chịu sự dày vò cùng cực của thực dân, đế quốc, giờ đây chúng ta có thể tự hào hái trái ngọt, có thể đón mùa xuân độc lập, tự do của dân tộc, đất nước đã được giải phóng, dân tộc đã rũ bùn đứng dậy. Hiểu được lịch sử quá khứ ta mới càng trân trọng hạnh phúc của hôm nay, ta mới thấy được mùa xuân của dân tộc ngày hôm nay ý nghĩa thế nào. Mùa xuân ấy đã phải đánh đổi bằng sự hi sinh, bằng máu và nước mắt, với một khối đồng lòng về tinh thần quật cường của một dân tộc tự cường.
Qua đây cũng cho thấy niềm tin tưởng tuyệt đối của tác giả vào sự phát triển thịnh vượng đi lên của đất nước. Đất nước sẽ luôn đi lên, sẽ sáng như những vì sao không bao giờ bị dập tắt.
Với ba khổ đầu bài thơ tác giả đã vẽ ra một bức tranh mùa xuân thật tuyệt vời với cảnh sắc thiên nhiên độc đáo nơi xứ huế và con người Huế, với tình cảm biết ơn những người lính, người lao động họ đã cống hiến hết mình cho sự nghiệp giải phóng đất nước. Đồng thời ba khổ đầu bài thơ cũng thể hiện niềm yêu quê hương tha thiết, muốn được gắn bó và cống hiến cho đất nước.
Văn Mẫu Lớp 12: Phân Tích Nhân Vật Mị Trong Tác Phẩm Vợ Chồng A Phủ Dàn Ý + 20 Bài Phân Tích Nhân Vật Mị
I. Mở bài
Tô Hoài là nhà văn nhạy cảm với cảnh sinh hoạt, phong tục tập quán của những vùng miền, ông có vốn ngôn ngữ phong phú, lối trần thuật tự nhiên.
Vợ chồng A Phủ là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách của Tô Hoài, truyện viết về những con người Tây Bắc tiềm tàng sức sống đã vùng lên đấu tranh chống lại bọn thống trị.
Nhân vật Mị là biểu tượng đẹp cho sức sống tiềm tàng của người phụ nữ bị áp bức.
II. Thân bài
1. Mị vốn là cô gái có những phẩm chất tốt đẹp
– Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra:
Mị là cô gái người Mông trẻ trung, hồn nhiên, có tài thổi sáo “thổi lá cũng hay như thổi sáo có biết bao nhiêu người mê”
Mị đã từng yêu, từng được yêu, luôn khao khát đi theo tiếng gọi của tình yêu.
Hiếu thảo, chăm chỉ, ý thức được giá trị cuộc sống tự do nên sẵn sàng làm nương ngô trả nợ thay cho bố.
2. Nạn nhân của những áp bức bất công
Khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra: bị “cúng trình ma” nhà thống lí, làm con dâu gạt nợ, bị bóc lột sức lao động, “không bằng con trâu con ngựa”, “đàn bà trong cái nhà này chỉ biết vùi đầu vào công việc” , bị đày đọa nơi địa ngục trần gian, bị đánh, bị phạt, bị trói, …
Mị dần trở nên chai sạn với nỗi đau: một cô gái lúc nào cũng vậy dù quay sợi, thái cỏ ngựa, … đều cúi mặt “mặt buồn rười rượi”, không quan tâm đến thời gian “lỗ vuông bằng bàn tay …không biết là sương hay nắng”.
Mị sống lầm li “như con rùa nuôi trong xó cửa”, “ở lâu trong cái khỏ Mị quen rồi”.
3. Sức sống tiềm tàng trong nhân vật Mị
– Khi bị rơi vào cảnh làm con dâu gạt nợ Mị có ý định tự tử bằng lá ngón, không chấp nhận cuộc sống mất tự do.
– Trong đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài, sức sống của Mị đã trỗi dậy:
Âm thanh cuộc sống bên ngoài (tiếng trẻ con chơi quay, tiếng sáo gọi bạn tình, ..) ùa vào tâm trí, đánh thức những kỉ niệm trong quá khứ của Mị.
Mị lẩm nhẩm lời bài hát, trong khoảnh khắc tâm hồn trở về với thanh xuân tươi đẹp, khao khát tình yêu hạnh phúc.
Mị ý thức được sự tồn tại của bản thân “thấy phơi phới trở lại”, “Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”, với khát khao tự do
Tinh thần phản kháng mạnh mẽ: lấy miếng mỡ để thắp sáng lên căn phòng tối, nổi loạn muốn “đi chơi tết” chấm dứt sự tù đày.
Khi A Sử trói, lòng Mị vẫn lửng lơ theo tiếng sáo, tiếng hát của tình yêu đến những đám chơi. Lúc vùng dậy cô chợt tỉnh trở về với hiện thực.
– Nhận xét: Mị luôn tiềm tàng sức sống mãnh liệt, sức sống ấy luôn âm ỉ trong lòng người con gái Tây Bắc và chỉ chờ có cơ hội để bùng lên mạnh mẽ.
– Khi A Phủ làm mất bò, bị phạt trói đứng:
Ban đầu Mị dửng dưng bởi sau đêm tình mùa xuân, cô trở lại là cái xác không hồn.
Khi thấy giọt nước mắt của A Phủ khiến Mị đồng cảm, chợt nhớ đến hoàn cảnh của mình trong quá khứ, Mị lại biết thương mình và thương cho kiếp người bị đày đọa “có lẽ ngày mai người kia sẽ chết, chết đau, … phải chết”.
Bất bình trước tội ác của bọn thống lí, Mị cắt dây đay cởi trói cho A Phủ
Mị sợ cái chết, sợ nỗi khổ sẽ phải gánh chịu trong nhà thống lí, cô chạy theo A Phủ tìm lối thoát vượt ra khỏi địa ngục trần gian.
– Nhận xét: Mị là người con gái lặng lẽ mà mạnh mẽ, tiềm tàng sức sống, hành động của Mị đã đạp đổ cường quyền, thần quyền của bè lũ thống trị miền núi.
III. Kết bài
Nêu suy nghĩ về hình tượng nhân vật Mị.
Nghệ thuật: ngôn ngữ, cách nói đậm chất miền núi, lối trần thuật linh hoạt với sự dịch chuyển điểm nhìn trần thuật, miêu tả thành công tâm lí nhân vật và hình ảnh thiên nhiên.
Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc: sự cảm thông với số phận đau khổ của những con người chịu áp bức, tố cáo lên án bọn thống trị miền núi, bọn thực dân, ngợi ca vẻ đẹp, sức sống tiềm tàng trong mỗi con người Tây Bắc.
Tô Hoài là một nhà văn lớn, đóng góp nhiều thành tự cho văn học Việt Nam. Nếu như trước năm 1945, ông đánh dấu sự thành công với tập truyện “Dế Mèn phiêu lưu kí” thì sau năm 1945, tập “Truyện Tây Bắc” đã đưa tên tuổi của ông lên một tầm cao mới. Tình cảm thiết tha, gắn bó, sâu sắc của Tô Hoài dành cho đất và con người Tây Bắc đã giúp ông viết nên những trang văn thấm đẫm tình yêu thương như thế. Truyện “Vợ chồng A Phủ” được trích trong tập Tây Bắc là câu chuyện tiêu biểu và mang nhiều giá trị tư tưởng lớn. Trong truyện, tác giả gửi gắm trọn vẹn nhất những tình cảm của mình vào nhân vật Mị, một cô gái đại diện cho vẻ đẹp và phẩm chất con người Tây Bắc.
Mị vốn là một người con gái tuổi đôi mươi của núi rừng Tây Bắc xinh đẹp và có tài thổi lá kèn hay như thổi sáo, được nhiều thanh niên trong làng mến mộ. Sức hấp dẫn của Mị tựa như những bông hoa rừng Tây Bắc đầy mê hoặc. Vào những đêm tình mùa xuân, trai bản đến đứng nhẵn cả vách đầu buồng Mị. Không chỉ xinh đẹp, ở nàng còn hội tụ những phẩm chất đẹp đẽ, đó là người con gái hiếu thảo với cha mẹ lại chăm chỉ trong công việc. Cuốc nương, làm rẫy Mị đều thuần thục.
Một cô gái tài sắc vẹn toàn như Mị xứng đáng được yêu thương, được hạnh phúc, nhưng Mị lại gặp phải hoàn cảnh trớ trêu. Bọn phong kiến tàn bạo đã khiến gia đình Mị lâm vào cảnh nợ nần chồng chất, gánh nặng phải trả nợ đè nặng lên đôi vai cô gái bé nhỏ. Song, chưa bao giờ Mị muốn phải bán mình để trả nợ, nàng cầu xin bố đừng bán cho nhà giàu, cô sẽ chăm chỉ làm nương, cuốc rẫy giúp bố trả nợ. Nhưng xã hội cường quyền lại không cho phép Mị sống cuộc đời tự do ấy. Cuộc đời Mị phải chịu sự quyết định của kẻ khác, cuối cùng cô phải bán mình, bước chân vào nhà tên thống lí Pá Tra tàn ác chịu phận nô lệ trên danh nghĩa làm dâu xoá nợ. Một cô gái sẵn sàng hi sinh bản thân để cứu lấy cha mẹ, cứu lấy gia đình chứng tỏ Mị là cô gái hết mực hiếu thảo, yêu thương cha mẹ mình. Mị khát khao tự do, ý thức được nhân phẩm và giá trị bản thân nhưng cường quyền của chế độ phong kiến thối nát đã trói buộc cuộc đời cô.
Về làm dâu nhà Pá Tra, Mị phải âm thầm chịu đựng bao nỗi bất công, thời gian đầu, đêm nào Mị cũng khóc thương cho số phận, cho cảnh hẩm hiu của đời mình, nàng đã bỏ hết tất thảy để tìm đến cái chết bằng nắm lá ngón để giải thoát những uất ức, khổ đau kìm nén bấy lâu. Nhưng khi nghĩ về cha, thương cha nàng lại không đành lòng, đành phó mặc cuộc sống, chấp nhận cuộc đời cơ cực với kiếp nô lệ đau thương của mình. Trong nhà tên A Sử, Mị chịu bao nỗi đau thể xác và tinh thần, Mị khổ cực hơn cả trâu cả ngựa, công việc làm triền miên ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác chẳng nghỉ ngơi. Mị như một cái máy gắn bó với công việc từ hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay đến đi bẻ ngô, gánh nước, kiếm củi,…, không việc nào là không tới tay Mị. Thể xác bị bóc lột, tinh thần Mị cũng không sướng là bao, nàng suốt ngày “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, tinh thần bị tê liệt đến đau khổ, Mị ngày càng ít nói, câm lặng hơn, chẳng còn nhận thức về thời gian và cuộc sống ngoài kia. “Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ bằng một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Dường như tuổi xuân của nàng bị khoá chặt trong ngôi nhà đó. Nàng ngày càng trở nên vô cảm.
Song, ẩn sâu trong con người Mị là một sức sống tiềm tàng không gì có thể ngăn nổi. Khi mùa xuân đến, không khí vui xuân ngày hội nơi bản làng Tây Bắc thật đẹp, thật tươi, khiến Mị bồi hồi nhớ lại những quá khứ tươi đẹp ngày xưa. Rượu và tiếng sáo rủ bạn tình khiến tâm hồn tươi trẻ của Mị như có dịp trỗi dậy, lòng Mị rạo rực sức sống mùa xuân “lòng Mị đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước”. Từ niềm rạo rực, phấn chấn ấy đã thôi thúc Mị hành động dứt khoát và quyết liệt vô cùng. Cô lấy ống mỡ bỏ thêm vào đĩa dầu để thắp đèn, thắp lên thứ ánh sáng xua tan đi bóng tối rợn ngợp bao trùm, xua tan màn đêm bấy lâu vây quanh cuộc đời Mị, nhen nhóm ngọn lửa hy vọng cho cuộc đời chính mình. Rồi Mị “quấn tóc lại với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”, Mị muốn được là mình, được là một cô gái đẹp đẽ như bao người con gái khác trong đêm mùa xuân ấy.
Trong lúc sức trẻ đang trỗi dậy, lòng yêu đời đang sung sức với Mị thì thực tại phũ phàng đã nhẫn tâm vùi dập niềm yêu ấy. A Sử khi biết lòng Mị muốn đi chơi, hắn đã chặn đứng ngay ý định đó. Hắn trói vợ vào cột nhà bằng một thúng sợi đay, quấn lấy mái tóc dài của Mị lên cột khiến cô đau đớn không thể cử động được. Nhưng thể xác dù bị trói buộc, bị hành hạ vẫn không thể trói lấy tâm hồn đang thiết tha cuộc sống của nàng, khát vọng sống vẫn âm ỉ cháy trong con người Mị. Hành động mãnh liệt nhất của cô là cắt dây trói cho A Phủ. Trong cơn đau đớn, Mị xót xa cho phận mình, thương cảm cho phận người, đó là sự đồng cảm với những kiếp người cùng chung số phận. Chính giọt nước mắt của A Phủ đã thức tỉnh Mị, hồi sinh trái tim đầy những vết sẹo đau thương. Mị quyết định cùng A Phủ chạy trốn. Giải thoát cuộc đời mình khỏi những sức mạnh tàn bạo của cường quyền, của bọn thống lí thiếu tình người, đồng thời chấm dứt cuộc đời nô lệ tăm tối, thương đau của chính mình.
Bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, khắc hoạ tính cách nhân vật qua suy nghĩ và hành động cùng lời văn nhẹ nhàng mà tinh tế, Tô Hoài đã xây dựng nên một hình tượng nhân vật Mị thật tiêu biểu và đặc sắc. Qua nhân vật, tác giả lên tiếng tố cáo chế độ áp bức tàn bạo, hà khắc của tầng lớp thống trị trong xã hội xưa và nói lên tiếng nói thương cảm trước những kiếp người chịu nhiều áp bức, bất công.
Nhà văn Tô Hoài là một người có vốn hiểu biết khá phong phú và sâu rộng về những vùng miền trên khắp Tổ Quốc nhưng có lẽ hiểu biết nhất vẫn là vùng đất Tây Bắc, không chỉ khắc nghiệt về khí hậu thời tiết địa hình mà con người ở đây cũng phải chịu những đau thương của xã hội hủ tục lạc hậu thời bấy giờ. Với văn phong hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh sinh động với biệt tài miêu tả nội tâm nhân vật sâu sắc Tô Hoài đã mang đến cho chúng ta một hình tượng nhân vật người phụ nữ Tây Bắc điển hình. Điển hình cho số phận, cho nỗi khổ hạnh phúc lứa đôi và những giá trị hiện thực và nhân đạo qua hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ Chồng A Phủ. Có thể nói tác phẩm này đã mang đến những cảm xúc cho chúng ta khi thấu hiểu số phận người con gái tên Mị.
Mị xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện với một hình ảnh lầm lũi, buồn tủi. bằng giọng kể thoang thoảng hương vị của ca dao cổ tích nhân vật Mị hiện ra báo trước một câu chuyện buồn sắp tới: “Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. đó chính là Mị nhưng tại sao cô lại buồn đến thế. Vả lại khi người ta hỏi ra mới biết cô chính là con dâu của nhà thống lý Pá Tra giàu lắm mà tại sao lại phải lầm lũi suốt ngày chỉ một công việc như vậy. những công việc ấy lặp đi lặp lại hằng ngày và Mị lúc nào cũng trông tư thế như vậy. Mị sống âm thầm lẽ loi lặng lẽ sống gắn vào với những vật vô tri vô giác. Như vậy có thể thấy hình ảnh của Mị hoàn toàn tương phản với những gì cô đang phải chịu tưởng rằng là con dâu nhà thống lý một vùng thì là sung sướng nhưng không điều đó hoàn toàn trái ngược với những gì chúng ta nghĩ. Và cuộc đời mà tác giả chuẩn bị kể ra đây sẽ chứng minh cho sự trái ngược ấy. Đồng thời chính điều đó đã phần nào nói lên, dự báo trước số phận cuộc đời của Mị không bằng phẳng đầy uất ức và bi kịch của cõi nhân sinh.
Mị một cô gái người dân tộc Mông xinh đẹp giỏi giang và hiếu thảo với cha mẹ nhưng dưới chế độ xã hội cũ cơ hội hạnh phúc và thực tế đau khổ sẽ diễn ra với cô như thế nào?
Trước khi làm dâu gạt nợ nhà thống lý Pá Tra, Mị là một cô gái xinh đẹp tài năng “Trai đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”. những chàng trai cô gái Mông tài giỏi chỉ cần một chiếc lá rừng là có thể thổi thành sáo nghe rất vui tai và Mị cũng có tài ấy. không những thế Mị còn là một cô gái có lòng tự trọng có tình yêu và đã có người yêu, khi cha bị đe dọa rằng thống lý muốn lấy Mị làm con dâu để gánh nợ cho món nợ từ đời bố mẹ. Bố Mị sót con nhưng cũng xót nương ngô. Mị thì nói với bố rằng giờ Mị có thể cuốc bẫm trồng ngô nên xin cha đừng gả Mị cho nhà thống lý. Mị có người yêu rồi, cô yêu cuộc sống tự do và yêu đời không ham giàu sang phú quý. Thế nhưng những ngày tháng tươi đẹp ấy nhanh chóng kết thúc vì Mị phải về làm dâu nhà thống lý Pá Tra. Một cô gái xinh đẹp, tài năng hiếu thảo đến như vậy tưởng chừng sẽ có một cuộc sống hạnh phúc nhưng ai ngờ hiện thực lại trái ngược với những gì mà người ta hay đoán.
Trong một đêm tình mùa xuân Mị đã bị A Sử con trai của thống lý Pa Tra lừa gạt và bắt về nhà. Trong cái đêm định mệnh ấy Mị đang ngồi đợi người yêu của mình đến nhưng A Sử đã đến và giả vờ giống người yêu Mị, hắn thò ngón tay đeo nhẫn vào vách, Mị tưởng người yêu bước ra thì một toán người chụp lấy cô và đưa cô về nhà. Bắt đầu từ đấy cuộc sống của Mị sống trong những ngày tháng đau khổ nhất và cũng là bắt đầu của kiếp làm dâu gạt nợ. Bề ngoài Mị là con dâu nhà thống lý nhưng thực chất Mị chỉ là thứ để gán nợ mà thôi. Cuộc sống của Mị không bằng một con ở, nếu như con ở có thể được giải thoát khi đã trả hết nợ thì kiếp dâu gạt nợ của Mị sẽ không bao giờ được giải thoát.
Kiếp làm dâu gạt nợ có thể nói là những ngày tháng đau khổ tủi nhục nhất cuộc đời Mị. cô bị tra tấn về thể xác lẫn tinh thần. Mị tê liệt lòng yêu đời yêu cuộc sống và tinh thần phản kháng. Trước đó, cô có tìm đến lá ngón để giải thoát cho mình nhưng nghĩ về cha và những lời cha nói, Mị lại đành phải ngậm ngùi vứt đám lá ngón trong tay quay trở về nhà thống lý. Vả lại trong xã hội ngày xưa khi người con gái cúng trình ma nhà chồng thì cả một đời đến khi chết chỉ có thể ở nhà chồng mà thôi, đến khi nào rũ xương ở đó ngay cả khi chồng đã chết đi. Và từ lần ấy Mị không nghĩ đến chuyện chết nữa mặc dù cha đã qua đời. Ở lâu trong cái khổ Mị đã quen khổ rồi “Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. ” Thế nhưng con trâu con ngựa nhà thống lý còn sướng hơn cả Mị bởi vì chúng làm nhưng cũng có lúc chúng được đứng gãi chân nhai cỏ, còn Mị thì hết ngày này qua này qua ngày khác đều làm quần quật không biết ngày tháng là gì “ Mị tủi thân nghĩ mình không bằng con ngựa”. Mị trở thành một công cụ lao động đúng hơn là con dâu nhà thống lý, cuộc sống của mình quanh quẩn bằng những công việc được sắp trước những công việc đó lặp đi lặp lại thành một vòng luẩn quẩn mà Mị cứ quay mình trong đó không thể thoát ra được “lúc nào cũng nhớ lại những việc giống nhau, mỗi năm một mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: tết xong lên núi hái thuốc phiện; giữa năm thì giặt đay; đến mùa đi nương bẻ bắp. Và dù đi hái củi, bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cách tay để tước sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm, suốt đời thế. Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày. ” Căn buồng Mị ở giống như một địa ngục trần gian tách biệt Mị với thế giới bên ngoài, Mị bị trà đạp về thể xác và tinh thần trói buộc bởi thần quyên và cường quyền “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa, ở buồng Mị nằm kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông ấy mà trông ra. ”. Có thể nói những ngày tháng ấy, Mị không được sống là chính mình, cô bị trói buộc và mất đi tinh thần phản kháng.
Thế nhưng khi những đêm tình mùa xuân trên rẻo cao đến thì sức sống tiềm tàng trong Mị trỗi dậy mãnh liệt. điều đó khẳng định rằng cô gái trẻ Hơ Mông vẫn đã có sự phản kháng trước thực tại của mình. Đêm tình mùa xuân đã đến những yếu tố ngoại cảnh đã tác động đến Mị. Mùa xuân đến đất trời Hồng Ngài thay đổi đầy sức sống và xuân sắc. con người Hồng Ngài cũng rủ nhau đi chơi trên khắp các sân, trẻ con, người lớn đặc biệt là trai gái, họ rủ nhau chơi pao, chơi quay. Chính những yếu tố đã tác động đến tâm hồn Mị, Mị thấy tâm hồn phơi phới trở lại. Có tiếng sáo gọi bạn tình làm cho Mị bổi hổi bồi hồi:
Mùa xuân trên Hồng Ngài như thế, mùa xuân trong nhà thống lý cũng rộn rã không kém, mọi người ăn bữa cơm cúng trình ma sau đó uống rượu bên bếp lửa. Mị thi lẩm nhẩm theo lời bài hát mà người đang thổi, rồi lén uống rượu, cố uống ực từng bát như đang cố uống từng chén say chén đắng của số phận mình. Tiếp đó Mị bước vào phòng xắn một ít mỡ cho đèn sáng lên, hành động đó như thể hiện sự thắp sáng chính số phận của Mị, Mị đã bừng tỉnh. Mị thấy lòng mình phơi phới trở lại Mị còn trẻ và Mị muốn đi chơi. Mị quấn lại tóc và với chiếc váy hoa, nhưng hành động đó đã bị A Sử phát hiện và trói cô vào cột. Mị đứng yên trong bóng tối hơi rượu vẫn thoảng làm cho cô tưởng mình không bị trói, trong đầu tiếng sáo vẫn văng vẳng. Mị vùng bước đi nhưng không thể bước được, thằng A Sử cột cả tóc Mị lên khiến Mị không nghiêng cũng không cúi được. Mị quay lại với thực tại phũ phàng và Mị ước “ nếu lúc này có nắm là ngón trong tay Mị sẽ ăn cho chết ngay”. Dù bị vùi dập nhưng chúng ta đã thấy được phần nào sức sống tiềm tàng và sư phản kháng của Mị trở lại. điều đó dự báo cho một cuộc vùng dậy về sau.
Những đêm tình mùa xuân qua đi, Mị lại quay lại với cuộc sống như trước. lại kể lại chuyện A Sử đi chơi gây gổ và bị một người tên A phủ đánh thương. Nhà thống lý bắt được A Phủ và đánh đập anh tơi bời, đánh xong lại hút thuốc phiện. sau đó chúng trói anh vào một cái cột. Mị dù bị trói chân tay dã dời nhưng khi chồng về cô vẫn phải gượng sức dậy đi lấy thuốc về cho chồng, thế nhưng ngay cả khi đau hắn cũng vãn tra tấn cô bằng những cái đạp vào mặt. Mị lạnh và hằng ngày cô thường hở lưng vào buổi đêm cho đỡ lạnh. Chứng kiến cảnh A Phủ bị trói ban đầu Mị dửng dưng vì cảnh tượng ấy diễn ra thường xuyên. Nhưng sau khi nhìn thấy hai dòng nước mắt của A phủ rơi lấp lánh rơi xuống hai hõm má đã sạm đen lại. Mị nhớ đến cảnh Mị bị trói đêm đó, nước mắt nước mũi rơi xuống mà không tài nào lau được. Mị thương mình rồi thương người, Mị quyết định cắt dây trói thả A phủ đi. Đó là một quyết định nguy hiểm nhưng trong đầu Mị bây giờ không còn nghĩ được gì nữa. Mị nghĩ mình đã cúng trình ma nhà nó thì sớm muộn gì mình cũng chết, còn người kia làm sai mà phải chết. Mị cắt dây cho A phủ và cùng anh chạy khỏi Hồng Ngài. Điều đó đó thể hiện tinh thần phản kháng và sức sống trong Mị. Cô vượt qua nỗi sợ hãi và vượt qua thần quyền hủ tục để cùng A phủ đi đến một vùng đất mới. từ đó cuộc đời tươi sáng theo cách mạng đã đến với Mị.
Như vậy có thể thấy Mị là một cô gái điển hình cho số phận những người phụ nữ Mông thời bây giờ. Họ có tài năng có nhan sắc nhưng lại bị chính những thần quyền hủ tục và cường quyền bạo lực trà đạp về thể xác cũng như tinh thần. họ đã biết vùng dậy đi theo cách mạng để chống lại những thế lực kia. Qua đây ta cũng thấy được những nét văn hóa của người Mông đó là thờ ma và có những phong tục đẹp như thổi sáo chơi quay.
Có thể nói đóng góp lớn lao cho sự thành công của tập Truyện ngắn Tây Bắc chính là “Vợ chồng A Phủ”. Xét riêng trong truyện này nhân vật giàu ấn tượng nhất , sinh động nhất là Mị. Bức chân dung về nhân vật trung tâm của tác phẩm là sự phối hợp của những mảng màu hoàng hôn u ám và bình minh rạng ngời ; của khát vọng sống, khát vọng tự do tiềm ẩn mãnh liệt trong cái hình xác nô lệ . Phát hiện và sáng tạo nhân vật Mị trong truyện, Tô Hoài đã chứng tỏ là cây bút bậc thầy trong việc khám phá những miền sống lẩn khuất trong thẳm sâu con người nơi mảnh đất cuối trời tây Bắc ở thời kỳ đen tối.
Mị, một cô gái xinh đẹp, yêu đời, có khát vọng tự do, hạnh phúc, bị bắt về làm con dâu gạt nợ cho nhà Thống lí Pá Tra.Lúc đầu Mị phản kháng nhưng dần dần trở nên tê liệt, chỉ “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.Đêm tình mùa xuân đến, Mị muốn đi chơi nhưng bị A Sử (chồng Mị) trói đứng vào cột nhà.
A Phủ vì bất bình trước A Sử nên đã đánh nhau và bị bắt, bị phạt vạ và trở thành kẻ ở trừ nợ cho nhà Thống lí.Không may hổ vồ mất 1 con bò, A Phủ đã bị đánh, bị trói đứng vào cọc đến gần chết.Mị đã cắt dây trói cho A Phủ, hai người chạy trốn đến Phiềng Sa. Mị và A Phủ được giác ngộ, trở thành du kích.
Chủ đề: Qua việc miêu tả cuộc đời, số phận của Mị và A Phủ, nhà văn đã làm sống lại quãng đời tăm tối, cơ cực của người dân miền núi dưới ách thống trị dã man của bọn chúa đất phong kiến, đồng thời khẳng định sức sống tiềm tàng, mãnh liệt không gì hủy diệt được của những kiếp nô lệ, khẳng định chỉ có sự vùng dậy của chính họ, được ánh sáng cách mạng soi đường sẽ dẫn tới cuộc đời tươi sáng.
Mị xuất hiện trong lời kể về thời quá khứ của cô là cô gái Mèo hoàn thiện, bông hoa ban thuần khiết của núi rừng Tây Bắc. Xuất thân trong một gia đình nghèo nhưng Mị được thiên phú hình dáng và nhiều tư chất tốt đẹp. Mị không chỉ đẹp mà trong cô còn ẩn tàng sự yêu đời, ham sống, say sưa với mối tình đầu. Những ngày tháng tuổi trẻ của cô trôi đi êm đềm đến trong tình thương của bố, trong âm thanh tuổi trẻ và sắc màu đêm hội đất miền tây. Mỗi ngày sống, trái tim cô như tràn căng hồi hộp sung sướng chờ nghe âm thanh tiếng sáo quen thuộc của người yêu.
Mị đồng thời là cô gái chăm làm, một đứa con hiếu thảo, biết xa lánh cái ác và biết trân trọng nâng niu tình yêu của mình, giàu lòng tự trọng. Sức trẻ và sự thánh thiện dồn tụ trong Mị, và với nó Mị hy vọng đứng vững giữa cuộc đời với khát khao tự do làm chủ cuộc sống. Mị tâm sự với cha mình ” con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm ngô để trả nợ cho bố”.
Nhưng số phận “những bông hoa” xinh đẹp và đầy sức sống ấy, ở thời điểm lịch sử này đến chung chịu số phận đau thương – đó là một tất yếu. Tô Hoài đã nhận rõ được cái logic nghiệt ngã này và “nàng Kiều” đất miền tây cũng không thoát khỏi nỗi đa đoan đoạn trường.
Cái đau đớn của số phận Mị bắt đầu từ một thứ tội truyền kiếp mãn tính của người nghèo, đó là không tiền của tất yếu sẽ trở thành nô lệ. Bố Mị vay tiền của Pá tra – số nợ lãi đến khi mẹ cô chết mà bố vẫn không trả hết. Mị đã trở thành vật thế gán nợ và thành nô lệ trong hoàn cảnh khắc nghiệt như thế. Và cũng bắt đầu bằng một nguyên nhân đau đớn bi phẫn, đó là “lỗi” của người xinh đẹp với phẩm hạnh trắng trong! Mị trở thành cô con dâu gạt nợ, một thứ “hàng hóa” trao đổi.
Phản ứng của Mị những ngày đầu là mấy tháng ròng, đêm nào Mị cũng khóc và định tự tử. Đây là phản ứng tự nhiên của cô gái trẻ yêu đời bỗng nhiên bị tước đoạt hết tự do; đồng thời cũng là phản kháng quyết liệt của con người ham sống muốn kiếm tìm một cuộc sống cho ra sống. Cuộc sống với tất cả tự nhiên của kiếp người chứ không phải vật vờ tồn tại trú ngụ cái rỗng không trong thể xác.
Tuy nhiên phản kháng của Mị bị chặn đứng, Tô Hoài thêm một lần cho thấy bản lĩnh khai thác các mối liên hệ chi phối nội tâm con người. Kiều hơn một lần quên sinh tránh ô nhục – thoát kiếp đoạn trường. Và nếu Kiều chết, sẽ không còn sự vương vấn nào về món tiền “ba trăm lạng”. Nhưng ở đây, Mị xót xa hơn, Mị chết – món nợ vẫn còn; và đương nhiên, cha cô phải là người gánh chịu tủi hờn đến hết kiếp. Và bi kịch xuất hiện, muốn chết mà không thể chết, đây cũng chính là nguyên nhân ý thức cam chịu xuất hiện trong Mị.
Những năm tháng sống Pha Tra là chuỗi ngày địa ngục, Mị xuất hiện trong không gian ấy như một cái bóng, suốt ngày cúi mặt im lặng. Đó vẫn chưa phải nỗi đau đớn thật sự, Nhà văn đã tìm ra sự thê thảm của nhân vật, đó là ý chí của Mị bị mài mòn. Trong đầu Mị, những suy nghĩ khát vọng, âm thanh sắc màu thời xưa cũ đã mờ chìm; thay vào đó là cái phải nhớ, quanh quẩn lặp đi lặp lại tẻ ngắt như một vòng tròn nặng nề không lối thoát: ” Mị cúi mặt không nghĩ nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mắt … con ngựa, con trâu làm còn có lúc nghỉ ..đàn bà con gái nhà này thì vùi đầu làm việc cả đêm cả ngày”.
Cùng với công việc nặng nhọc triền miên là sự hành hạ trực tiếp của cha con Thống lý trên thân xác, bản thân Mị bị đánh, trói và từng chứng kiến không biết bao nhiêu người bị hành hạ đến chết. Ý chí của Mị dần bị đè bẹp dưới sức mạnh tàn bạo thời trung cổ, mà hệ quả của nó là làm cho nỗi cay đắng đen tối luôn đọng lại đặc quánh trong Mị, cô tự rút ra kết luận: mình không bằng con ngựa. Và rồi hành động của cô tê liệt: lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.
Tuy nhiên nỗi đau khổ tinh thần mới là thật sự là nỗi đau tê tái, nó biến Mị thực sự trở thành “con vật”mang tên người. Mất tình yêu đầu là nỗi đau tinh thần quá khứ, nhưng đau hơn, xót hơn là Mị không được phép nghĩ về nó; bởi mỗi ý nghĩ về tình xưa ở nơi cô đồng nghĩa với sự phạm tội ghê gớm. Chúa đất miền núi và tập tục cúng ma do chúng lập nên, đã ràng buộc một cô gái có chồng và Mị sống song tồn với một ý nghĩ: Mình đã “trình ma” Thống lý thì chỉ có còn cách chết rũ xương ở đây. Tô Hoài đã sắc sảo nhìn thấy việc tập tục mê tín thần quyền bắt tay với giai cấp thống trị tạo ra một thứ “thuốc phiện tinh thần” trói chặt đời Mị, nô dịch tinh thần cô.
Mị bị cấm đoán trong việc hòa nhập cộng đồng. A sử trói Mị, dùng bạo lực quyết liệt tách Mị ra khỏi thế giới con người . Vì vậy, bên trong thể xác tơi tả của Mị là tâm hồn cô đơn trống rỗng, nếu còn một mảnh nhỏ cũng bị cào nhàu nát. Thể xác ấy, tâm hồn ấy bị giam hãm trong không gian chật hẹp tù đọng, làm cho nỗi đau thêm chồng chất, sự bất lực đến cực cùng. Tô Hoài xây dựng đoạn truyện đầy ẩn dụ về căn buồng của Mị, và với nó, nhà văn giúp người đọc hình dung được nỗi đau tột cùng của kiếp người nô lệ.
Trong không gian oi ngạt ấy, thời gian như ngưng đọng. Trước mát Mị chỉ là sắc màu hoàng hôn dài đằng đẵng buồn tẻ, tê tái. Mị thực sự không còn sống nữa mà chỉ còn là một sinh thể tồn tại chậm chạp bước về cõi chết. Cách áp chế ấy của gia đình thống lý Pá Tra, đã tạo ra những hệ quả ghê gớm, nó đập vỡ biến dạng tâm hồn vốn trong như pha lê của cô gái trẻ trung yêu đời là Mị.
Phần đầu truyện Mị chỉ chỉ nói một câu duy nhất còn lại là im lặng khuất phục, nhưng Mị cũng đã nuôi ý định tự vẫn. Còn bây giờ, Mị không buồn nghĩ đến cái chết nữa. Đây là một tình tiết khám phá xuất sắc về nội tâm nhân vật của nhà văn; bởi khi con người nghĩ về cái chết, tức là còn tha thiết sống cuộc sống, muốn tìm cuộc sống tốt hơn và phủ nhận thực tại. Nhưng khi không buồn nghĩ đến cái chết thì đã là sự buông thả số phận cho định mệnh mà không còn ý niệm về sự tồn tại của mình. Logic phát triển tâm lý ở Mị đã đến cái đỉnh bi kịch ấy. Với cô, thời gian không còn ý nghĩa, không còn gợi cảm xúc và hình ảnh cuộc sống chỉ còn là màn sương mờ đục. không quá khứ hiện tại. Nhưng ghê gớm hơn cả là sự tàn bạo đã làm cho Mị mất mát điều lớn nhất đó là: đánh mất tình đồng loại. Cô gái có trái tim nhạy cảm ngày xưa bây giờ hóa đá, chính bởi vậy ,trước cái chết đang ập xuống đầu A Phủ mà Mị vẫn bình thản, đó là thái độ tàn nhẫn không thể có ở con người.
Toàn bộ những tình tiết truyện đen tối, vây bủa Mị, có sức gợi rất mạnh về bối cảnh xã hội phong kiến và thần quyền miền núi. Đó là bản cáo trạng về sự tước đoạt quyền sống của những con người lương thiện vô tội đến triệt để mà Mị là nhân chứng. Tội phạm tạo lên bi kịch đó là cha con Thống lí và xã hội miền núi đen tối một thời. Và hình ảnh Mị cũng trở thành hình ảnh khái quát cho những thân phận nghèo hèn nô lệ nơi miền đất núi rừng âm u tù hãm. Con đường mà họ đi chỉ là hành trình dưới roi vọt cường quyền, trong cái nhà tù oi ngạt khổng lồ là xã hội phong kiến miền núi.
Khi đọc Chí Phèo, người đọc đã chứng kiến một Chí Phèo từ người biến thành “con quỷ dữ làng Vũ Đại”, thế nhưng chỉ một bát cháo hành của Thị Nở, một hòn than nhân tính nhỏ trong cái đống tro tàn Chí Phèo bỗng bốc cháy một khát vọng làm người lương thiện. Trong “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài cũng đã tìm được hòn than nhân tính ấy. Bởi thế, Mị cô gái hồn nhiên tươi trẻ với bao khát vọng đã bị áp chế của thế giới bạo tàn làm cho gục ngã và biến đổi chỉ còn là chiếc bóng đã hồi sinh.
Phát hiện của Tô Hoài là tìm thấy một sự thật nhân văn, đó là, song tồn với cuộc sống đen tối còn có một cuộc sống khác tiềm ẩn trong Mị. Nhà văn đã đi sâu vào tận cùng cuộc sống nội tâm nhân vật, phát hiện khơi gợi nó và ông đã tìm thấy nơi ấy vẫn nén chứa một tiềm năng ham sống khát khao hạnh phúc.
Phản ánh sức trỗi dậy của Mị, Tô Hoài xây dựng một hoàn cảnh điển hình làm bối cảnh hồi sinh của tâm hồn cô gái Mèo nô lệ. Đây là một dụng công tinh tế, nhờ nó mà trước hết bản năng con người tự nhiên được trỗi dậy. Thiên nhiên chuyển mùa và những vang động của cuộc sống đã tác động vào tận cùng ngõ sâu góc khuất của tâm hồn bị băng giá đóng cứng lại và hơi ấm của nó đã làm cho sự băng giá ấy rã dần. Hình ảnh mùa xuân về trên vùng núi cao, trong chuyện thật tươi đẹp với sắc màu sinh động: “váy hoa đem phơi trên đá xoè ra như những con bướm sặc sỡ, hoa thuốc phiện nở trắng đồi màu đỏ hoa, đỏ thẫm rồi sang màu tím man mác”. Bên sắc màu là âm thanh, là tiếng cuộc sống rộn rã; tiếng trẻ cười chơi quay và tiếng sáo gọi bạn tình… Nhà văn dường như đã đến “gõ cửa” tâm hồn nhân vật tái hiện cái khoảnh khắc ngày chuẩn bị đón xuân, tạo vật và con người bừng tỉnh. Hoàn cảnh ấy tác động vào tâm hồn Mị. Trong thế giới thâm cung lạnh lẽo u ám ấy, dù không nhìn thấy sắc màu, nhưng âm thanh tiếng sáo lay động Mị làm cho cô bừng thức. Chi tiết tiếng sáo được chọn làm đối tượng tác động lấy thức Mị là sự tinh tế của ngòi bút Tô Hoài, bởi chỉ có âm thanh mới thực sự xuyên được những bức tường dày, những cánh cửa khép, để rồi tưới lên, thúc gọi trái tim cô quạnh héo úa làm cho nó hồi sinh. Và cũng bởi tiếng sáo ấy gắn liền thời quá khứ mộng mơ của Mị mà sự thăng hoa nhất ngọt ngào nhất là tiếng gọi của mối tình đầu.
Chính nhờ nó, niềm u mê tăm tối, nỗi lung linh hồn Mị lạc lối đã được đánh thức. Mị vượt ra khỏi tâm trạng thờ ơ của mình bấy lâu nay, tâm hồn cô trở về với đời sống thực tiễn , trong óc cô tái hiện kỷ niệm đẹp của một thời con gái: uống rượu chơi xuân, nhịp sáo tình yêu dìu dặt… Mị đã vượt tình trạng “sống thực vật”, phí thời gian và bắt đầu sống với những niềm vui chỉ trong chốc lát. Trong khoảng sống trở lại ấy lần đầu tiên Mỹ có hành động , phản ứng đầu tiên là ý nghĩ muốn chết “nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay”. Phản ứng ấy khẳng định rằng, Mị đã thực sự sống lại, lý trí sáng suốt đã phân tích cho Mị hiểu rằng hoàn cảnh sống thực tại là vô cùng đau xót tủi hờn.
Nhưng tiếng sáo (trong hoàn cảnh điển hình được xây dựng) vẫn thôi thúc quyến rũ ” tiếng sáo gọi bạn tình vẫn lơ lửng bay ngoài đường” tác động vào con người hồi sinh của Mị, và mạnh hơn, nó xâm nhập vào trong tâm hồn và lý trí của cô tồn tại và sống trong đó, thôi thúc day dứt “trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo”. Tiếng sáo khơi gợi sức sống như những đợt sóng ào ạt, những sục sôi trong miền khuất lấp đã trỗi dậy thành hành động: “Mị đến góc nhà lấy ống mỡ xoắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Xây dựng nhiều hình ảnh trong đoạn truyện này, nhà văn đã biểu đạt được hành động thức tỉnh của nhân vật. Mị thắp đèn lên soi rọi vào chính cõi u mê của mình, thoát khỏi đêm tối triền miên của quá khứ, thay đổi cái không gian lúc nào cũng bàng bạc như hoàng hôn mà Mị lâu nay vẫn tồn tại. Mị đã tự hành động như một con người tự do, tự đi theo tiếng gọi của lòng mình: quấn lại tóc, rút váy hoa … sửa soạn chơi tết. Đoạn truyện toát lên một tinh thần nhân văn cao đẹp, Tô Hoài đã gửi đến thông điệp, con người dù cùng cực và bị nhấn chìm trong đen tối đến mấy, thì trước sau vẫn là con người. Vấn đề đặt ra là cái gì, bối cảnh nào sẽ nâng họ dậy và đỡ họ trở lại với nhịp cuộc đời.
Giữa lúc lòng ham sống vừa xuất hiện, thì Sử đến cùng với những sợi dây trói. Động tác trói vợ của A sử rất thản nhiên, rành rẽ. Một hành động trong bối cảnh cụ thể của truyện, gợi cảm nhận sự tàn ác đến lạnh lùng của thế giới bạo tàn không còn lương tri. Nhưng cái chính là cái tàn nhẫn ấy càng làm khát vọng của con người trở lên mãnh liệt, một khi họ đã vượt qua cái chết, sự quằn quại đau đớn và đã hồi sinh. Mị bị trói, nhưng tiết tấu của cuộc sống vẫn gọi thiết tha ” tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi … Mị vùng bước đi”. Đoạn văn đã miêu tả thành công cuộc giằng xé quyết liệt giữa khao khát hạnh phúc cháy bỏng và thực tại tàn nhẫn lạnh lùng. Xét phương diện tinh thần thì Mị đã thắng; khát vọng của Mị trào ra khỏi, “Bung phá” những sợi dây trói khắc nghiệt vô tình. Tuy nhiên khát vọng ấy thực tế vẫn bị đè bẹp, lằn dây trói cứa vào làn da thịt, làm Mị tỉnh lại, giấc mộng tan biến thay vào đó là ý nghĩ cay đắng “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”; và như vậy cuộc vùng dậy lần thứ nhất của Mỹ thất bại, sự quẫy đạp vươn dậy không đủ sức mạnh để thay đổi số phận.
Đột biến lớn nhất làm thay đổi kiếp sống của Mị là đêm Mị quyết định cứu A phủ. Khởi đầu là tâm trạng lạnh lùng thản nhiên của Mị khi nhìn A phủ bị trói đứng ” Mị thản nhiên thổi lửa hơ tay. Nếu A phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi”. Tâm hồn vốn nhân hậu đã rơi vào vô cảm, nhưng nước mắt A phủ đã đánh thức trái tim Mị. Thoát ra khỏi vô cảm, My sống dậy bằng những hồi ức run rẩy nơi trái tim đầy thương tích của chính cô: Mị nhớ lại A sử trói Mị; Cảm giác thương thân làm tăng thêm xúc cảm thương người để rồi bật lên tiếng kêu ” trời ơi nó bắt trói đứng người ta đến chết “. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm trời trong cái thế giới nhà Thống lý, Mị mới bật kêu được thành tiếng con người. Mị đã thực sự sống lại hoàn toàn, với ý nghĩa là con người đầy đủ nhân cách; và do vậy đến đây, lòng thương người đã trở thành sức mạnh lấn át nỗi thương thân. Lòng nhân hậu trong Mị đã hồi sinh, và chính nó trở thành động lực giúp Mị chiến thắng nỗi sợ, thúc đẩy cô có hành động cứu người: Mị rút dao cắt dây cứu A Phủ. Hành động xong, nỗi sợ xuất hiện nhưng bản năng tự vệ tích cực đã kích thích hành động tiếp theo Mị chạy theo A phủ, với lời giải thích ngắn gọn “ở đây thì chết mất”. Mị đã trở về là Mị tư cách là con người và trưởng thành về nhận thức, cô thấy rõ được bộ mặt của thế giới bạo tàn, kiên quyết từ bỏ nó. Hành động chạy trốn của Mị là hành động chạy theo khát vọng tự do mà bấy lâu bị nén chặt. Mị tự thoát ra khỏi bóng đêm để đến với ánh sáng; tự đập vỡ không gian oi ngạt cầm tù mở ra cuộc đời mới cho chính bản thân mình, mặc dù ở thời điểm này, hành động ấy vẫn là tự phát
Nhân vật trung tâm Mị được xây dựng thành công và là hình ảnh văn học đặc sắc. Trang viết về Mị ở phần đầu truyện đầy ấn tượng, trong đó có những đoạn viết thăng hoa. Tài năng độc đáo của Tô Hoài là xây dựng lên những nghịch cảnh diễn biến tinh vi trong con người Mị. Một cô gái xinh đẹp nhưng gánh chịu số phận đa đoan, một nội tâm đầy mâu thuẫn. Các tình tiết viết về Mị hầu hết là đối thoại nội tâm, hay nói cách khác Mị hiện lên trong truyện bằng những tình tiết thoát ra từ miêu tả nội tâm. Những cuộc đối thoại nội tâm đã dẫn đến kết cục bất ngờ nhưng hoàn toàn hợp lý và logic.
Hành động cứu A Phủ là hành động táo bạo có ý nghĩa quyết định đời Mị và mở ra cuộc sống mới. Ở đó, Mị và A phủ thành vợ thành chồng, cùng đội du kích đánh giặc bảo vệ bản làng ở miền đất mới Phiềng xa. Hành động ấy khẳng định cuộc sống vốn tiềm tàng và phong phú, những đau khổ và khát vọng tự do đều tồn tại trong Mị từ trước, vấn đề đặt ra là cái gì khơi gợi cho sự tích cực trỗi dậy chiến thắng. Hành động giải phóng (Cứu A Phủ và cứu mình) là hành động tự phát, và nó trở thành phát triển tự giác ở đoạn sau của tác phẩm. Nhưng Tô Hoài đã tạo ra được cái khác biệt giữa nhân vật Mị với các nhân vật: Thúy Kiều (Truyện Kiều – Nguyễn Du) hay Vũ Nương (Người con gái Nam Xương – Nguyễn Dữ)… ở chỗ bông hoa xứ Mèo không tìm đến một thế giới ảo tưởng, hoặc một vòng vây đen tối bi kịch mới, mà là khát vọng vùng lên tìm một con đường sống với sự đổi thay và tự do triệt để.
Tô Hoài cùng với Nam Cao, Kim Lân, đều là những nhà văn hiện thực nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam hiện đại, để lại nhiều những tác phẩm có giá trị nhân văn, phản ánh hiện thực xã hội một cách khách quan và nhiều xúc cảm, đau đớn, xót xa, thương cảm, yêu thương,… Nếu như bản thân Nam Cao hay Kim Lân cả trước và sau cách mạng đều tập trung vào đề tài người nông dân, trí thức tiểu tư sản vùng đồng bằng Bắc Bộ, thì Tô Hoài lại được xem là nhà văn hiện thực của vùng miền núi phía Bắc nước ta, bằng một tấm lòng thiết tha, gắn bó, ngòi bút cảm thông sâu sắc với số phận của những con người khốn khổ chịu sự áp bức, bóc lột của cả cường quyền và thần quyền phong kiến tàn ác. Đặc biệt, điểm sáng trong đề tài của Tô Hoài còn nằm ở việc ông tập trung vào số phận của những người phụ nữ vùng cao, ông vừa khai thác cuộc đời bất hạnh, vừa làm nổi bật cả những vẻ đẹp trong tâm hồn họ, đồng thời Tô Hoài cũng dần hé mở những lối thoát, giải phóng cho nhân vật của mình bằng những định hướng về một cuộc đời khi cách mạng về. Một trong những tác phẩm thành công nhất của Tô Hoài chính là Vợ chồng A Phủ, với nhân vật Mị, một người phụ nữ có số phận đớn đau, cam chịu, sau cùng lại vùng dậy đấu tranh để tìm lại cuộc đời, tìm lại tự do.
Mị là một người phụ nữ đại diện cho nhiều người phụ nữ khác Hồng Ngài, cũng như ở cả vùng núi rừng Tây Bắc. Dưới ngòi bút của Tô Hoài, nhân vật Mị hiện lên là một cô gái xinh đẹp, lại có tài thổi sáo rất hay, thuở còn xuân Mị được biết bao nhiêu trai bản theo đuổi, đứng đến nhẵn cả góc nhà chỗ đầu giường Mị nằm. Thế nhưng Mị sinh ra trong một gia đình nghèo khó, cha Mị vì lấy mẹ Mị mà phải đi vay nợ, món nợ với nhà thống lý Pá Tra mà cho đến đời Mị vẫn không thể trả hết. Thành thử, Mị phải chấp nhận số kiếp làm con dâu gán nợ, gả làm vợ của A Sử, con trai thống lý Pá Tra. Mà dưới chế độ cường quyền thần quyền đàn áp thì cuộc đời của người con dâu gán nợ, nó khốn nạn lắm, Mị nào được hưởng cảnh sung sướng của một cô con dâu nhà giàu, mà trái lại phải nai lưng ra làm lụng quanh năm ngày tháng, đầu tắt mặt tối không khác gì một nô lệ để trả nợ cho cha.
Cuộc sống đau khổ khiến Mị nhiều lần muốn ăn lá ngón để chết quách đi, nhưng Mị lại không chết được, bởi chết rồi thì ai sẽ trả nợ cho cha, rồi dần dà Mị trở nên chai lì, lầm lũi như con rùa trong xó cửa, chỉ biết ăn và làm, không thiết tha bất cứ điều gì khác. Bởi lẽ Mị bị bắt về gán nợ, không chỉ là làm lụng lấy sức lao động để bù đắp, mà Mị đã bị bắt về đã làm lễ trình ma nhà A Sử, cả đời Mị sẽ sống làm người nhà nó, chết cũng là ma nhà nó rồi, Mị đã hoàn toàn không có một lựa chọn nào khác, không có một sự tự do nào nữa. Chết không được thì người ta buộc phải sống, mà sống theo cách của Mị thì nó lại đau đớn quá, Mị sống với một tâm hồn một trái tim như tro tàn nguội lạnh, sống mà đến độ tưởng mình không còn là người nữa, mà chỉ là một cỗ máy lao động có chân tay, biết nói chuyện trong nhà thống lý Pá Tra. Đến nỗi Mị thấy mình đến loài súc sinh chăn trong nhà cũng không bằng bởi “ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi. Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Thậm chí “Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày”. Đọc những dòng văn ấy, người ta đã tưởng đến độ con người phải bị áp bức, bị vắt kiệt bị giam cầm đến mức nào mới có thể có những suy nghĩ đớn đau đến nhường này. Và cái khổ nó đã làm biến dạng cả tâm hồn, ngoại hình Mị, đầu óc cô không nghĩ việc gì khác ngoài những việc làm lụng, dù làm gì cũng cúi mặt, buồn rười rượi, lại ngày càng chẳng nói năng gì, dường như Mị quên đi cả khả năng giao tiếp của mình.
Không chỉ thế, đời Mị nó không chỉ khổ về thể xác, mà nó còn là cả những đớn đau về một tâm hồn trong hoạt cảnh tù đày. Mị mang danh là vợ A Sử thế nhưng giữa họ không hề có tình yêu, Mị cũng từng có một người yêu, nhưng món nợ của cha mà đứt gánh. Khi về nhà này làm dâu, dường như cuộc đời của Mị chuyển sang hẳn kiếp nô lệ, bị bóc lột không chỉ sức lao động mà con là tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc. Không gian sống của Mị là một căn buồng có một cái lỗ vuông bằng bàn tay, thật chẳng khác gì cái nhà tù, mà từ đó trông ra “lúc nào cũng thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng”, đời Mị cứ ngồi ở cái lỗ vuông ấy mà trông ra đến bao giờ chết thì thôi. Rõ ràng là cuộc đời của một người tù chung thân, mà nó cũng chỉ xuất phát từ cái nỗi Mị là đàn bà ở Hồng Ngài, nhà Mị nghèo quá, mà cha Mị lại mắc nợ người ta. Thế nên để chống chọi với đau đớn đang tàn phá tâm hồn và thể xác, Mị bị buộc phải trở nên chai lì một cách bất lực, sống cuộc đời của một con rùa lầm lũi trong xó cửa, cam chịu và bế tắc.
Những tưởng rằng, cuộc đời của Mị sẽ chỉ mãi nằm trong cái vòng luẩn quẩn bế tắc ấy và cái lòng ham sống, cái sự phản kháng vùng vẫy của Mị đã chết hẳn từ mấy năm trước rồi. Nhưng không, nó vẫn âm ỉ, tiềm tàng nằm thật sâu trong lòng Mị, được bao bọc xung quanh bởi những lớp chai cứng xù xì, dưới lớp tro tàn tàn nguội lạnh để chờ thời cơ nổi dậy. Mùa xuân đến người ta đang nô nức, hào hứng chuẩn bị đón Tết, phụ nữ phơi váy hoa khắp nơi, đám trẻ nô đùa chơi quay, và có tiếng sáo ai rủ bạn đi chơi thấp thoáng. Chính cái tiếng sáo thiết tha, bồi hồi ấy đã thức dậy trong tâm hồn Mị một chút niềm vui sống, thường ngày Mị chẳng thiết nói năng, thế mà nay Mị lại nhẩm hát theo tiếng sáo du dương. Đó là dấu hiệu cho sự thức tỉnh của lòng ham sống, ham vui, ham hạnh phúc trong Mị. Ngày Tết người ta uống rượu, Mị cũng uống “uống ừng ực từng bát” như thể muốn trút hết những uất ức, thống khổ trong lòng một cách thống khoái, mạnh mẽ. Thế rồi Mị lặng người nhìn người ta nhảy múa vui chơi, Mị lại nhớ về những ngày còn ở với cha mẹ, Mị cũng có những ngày tháng tươi đẹp như thế. Mị chợt nhớ mình còn biết thổi sáo, thổi lá cũng rất hay. Mị uống rượu và thổi sáo, Mị tận hưởng cuộc sống, tự tạo dựng lại cho mình những niềm vui ngày xuân để quên đi nỗi sầu khổ, đớn đau suốt mấy năm qua của mình. Tâm hồn Mị dần dần sống lại một cách chậm rãi, Mị bắt đầu ý thức được mình còn trẻ trung, vẫn còn khao khát những niềm vui của cuộc sống. Có lẽ rằng chính cái âm thanh tiếng sáo gọi bạn đầu làng, cái âm thanh của sự sống cứ văng vẳng bên tai Mị, đã hâm nóng lại ngọn lửa thanh xuân trong lòng cô, khiến “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết”. Mị lại sửa soạn áo quần, tóc tai và muốn ra ngoài hòa vào không khí vui nhộn của dịp Tết, hòa nhập với xã hội. Nhưng đau đớn thay, bấy nhiêu những hớn hở, khao khát của Mị đã bị người chồng A Sử dập tắt, nó trói Mị chặt cứng vào cột nhà khiến cô không thể động đậy. Lúc này đây mấy thấy cái tấm lòng ham sống, khao khát tự do của Mị được bộc lộ một cách mãnh liệt và sâu sắc. Một người vốn đã chai lì cảm xúc, quen bị hành hạ, quen lao động nặng nhọc quanh năm, thờ ơ với cái chết, thế mà lại bắt đầu sợ. Mị nghĩ đến nhà này cũng có một người đàn bà bị trói vào cột đến chết, “Mị sợ quá, Mị cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết. Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau từng mảnh thịt”. Lúc này đây Mị sợ chết tức là lòng ham sống của Mị còn mãnh liệt lắm, Mị thấy đau đớn tức là tâm hồn Mị đã dần dà sống lại, cũng biết buồn biết khổ, chứ không còn chai sạn như trước nữa. Mị đã sống lại một cách hoàn toàn cả về tâm hồn lẫn thể xác.
Cuộc gặp gỡ với A Phủ, có lẽ chính là định mệnh, là bước ngoặt lớn cho sự phản kháng và việc giành lấy tự do của Mị sau khi tâm hồn nhân vật này hoàn toàn thức tỉnh. Chứng kiến cảnh A Phủ bị trói giữa sân, bị bỏ đói, bị đánh đập chỉ vì làm mất một con bò, nhưng ban đầu Mị vẫn thản nhiên, thổi lửa hơ tay, dường như lòng người đàn bà này lại quay trở về cái vẻ chai sạn, chết hết mọi xúc cảm như trước kia. Thế nhưng sự bình tĩnh, im lặng ấy lại chính là dấu hiệu, sự chuẩn bị cho một quá trình phản kháng mạnh mẽ mà không ai ngờ tới của Mị. “Dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má xám đen lại” của A Phủ, như là một giọt nước cuối cùng rớt vào ly nước vốn đã đầy ăm ắp của Mị, trở thành giọt nước tràn ly. Nó đã dấy lên trong lòng người đàn bà này biết bao nhiêu là cảm xúc, Mị thấy căm giận nhà thống lý Pá Tra, chúng nó đã trói chết bao nhiêu người đàn bà như vậy, chúng nó thật độc ác, nhưng phận đàn bà làm dâu trong nhà thì muôn đời phải vậy. Còn A Phủ sao phải chịu chết như thế, Mị thấy bất bình, thấy xót xa cho một kiếp người nhưng còn chẳng bằng con bò bị mất, phải chết vì một con bò, giống như Mị phải làm trâu làm ngựa, gần như chết hẳn trong cái nhà này vì món nợ truyền kiếp của cha. Ôi sao đời Mị và đời A Phủ lại đớn đau giống nhau đến vậy, chẳng lẽ cứ nghèo khó, không quyền thế là phải chịu áp bức, đau khổ hay sao? Mị thương người đàn ông tội nghiệp đó, sắp phải chịu chết đói, chết rét, chết vì bị đánh, Mị muốn cởi trói cho A Phủ, nhưng rồi Mị cũng sợ mình sẽ là người phải chịu chết thay. Mị đã đấu tranh tư tưởng nhiều lần, rồi cuối cùng Mị ra một quyết định rất táo bạo, Mị cởi trói cho A Phủ, thì thào một tiếng “Đi ngay…”. Nhìn thấy một kẻ vốn đã gần chết tới nơi, thế nhưng lại vẫn dùng hết sức bình sinh chạy vụt xuống triền đồi, lòng Mị dường như vỡ ra cái gì đó, phải rồi, Mị đã giải thoát cho người ta thì cũng phải giải thoát cho chính mình chứ, và thế là Mị chạy vụt theo A phủ. Những câu nói cuối cùng trong đoạn trích “Cho tôi theo với, ở đây thì chết mất”, chính là minh chứng cho sự phản kháng mạnh mẽ, ý thức mưu cầu tự do, lòng ham sống, ham tự do mãnh liệt đang cháy ngùn ngụt trong lòng của người đàn bà nhiều năm vốn đã chai lì, lạnh giá.
Vợ chồng A Phủ nói chung và nhân vật Mị nói riêng chính là tấm lòng yêu thương, thông cảm, trân trọng của Tôi Hoài đối với những người con miền núi, những con người dù phải chịu nhiều những đắng cay chèn ép của thần quyền và thần quyền khắc nghiệt. Thế nhưng họ vẫn có một niềm tin, khao khát sống mãnh liệt, sức phản kháng tiềm tàng mạnh mẽ, sẵn sàng đứng lên tự giải thoát cho bản thân, giành lại quyền mưu cầu hạnh phúc và tự do của bản thân. Từ đó Tô Hoài cũng nhấn mạnh tư tưởng của một nhà văn cách mạng, ấy là hướng nhân dân, những con người đang chịu cảnh lầm than thoát khỏi ách áp bức bằng con đường cách mạng, tạo dựng niềm tin của nhân dân vào tương lai tươi sáng của Đảng và nhà nước.
Tô Hoài là một nhà văn lớn, đóng góp nhiều thành tự cho văn học Việt Nam. Nếu như trước năm 1945, ông đánh dấu sự thành công với tập truyện “Dế Mèn phiêu lưu kí” thì sau năm 1945, tập “Truyện Tây Bắc” đã đưa tên tuổi của ông lên một tầm cao mới.
Tình cảm thiết tha, gắn bó, sâu sắc của Tô Hoài dành cho đất và con người Tây Bắc đã giúp ông viết nên những trang văn thấm đẫm tình yêu thương như thế. Truyện “Vợ chồng A Phủ” được trích trong tập Tây Bắc là câu chuyện tiêu biểu và mang nhiều giá trị tư tưởng lớn. Trong truyện, tác giả gửi gắm trọn vẹn nhất những tình cảm của mình vào nhân vật Mị, một cô gái đại diện cho vẻ đẹp và phẩm chất con người Tây Bắc.
Mị vốn là một người con gái tuổi đôi mươi của núi rừng Tây Bắc xinh đẹp và có tài thổi lá kèn hay như thổi sáo, được nhiều thanh niên trong làng mến mộ. Sức hấp dẫn của Mị tựa như những bông hoa rừng Tây Bắc đầy mê hoặc. Vào những đêm tình mùa xuân, trai bản đến đứng nhẵn cả vách đầu buồng Mị. Không chỉ xinh đẹp, ở nàng còn hội tụ những phẩm chất đẹp đẽ, đó là người con gái hiếu thảo với cha mẹ lại chăm chỉ trong công việc. Cuốc nương, làm rẫy Mị đều thuần thục.
Một cô gái tài sắc vẹn toàn như Mị xứng đáng được yêu thương, được hạnh phúc, nhưng Mị lại gặp phải hoàn cảnh trớ trêu. Bọn phong kiến tàn bạo đã khiến gia đình Mị lâm vào cảnh nợ nần chồng chất, gánh nặng phải trả nợ đè nặng lên đôi vai cô gái bé nhỏ. Song, chưa bao giờ Mị muốn phải bán mình để trả nợ, nàng cầu xin bố đừng bán cho nhà giàu, cô sẽ chăm chỉ làm nương, cuốc rẫy giúp bố trả nợ.
Nhưng xã hội cường quyền lại không cho phép Mị sống cuộc đời tự do ấy. Cuộc đời Mị phải chịu sự quyết định của kẻ khác, cuối cùng cô phải bán mình, bước chân vào nhà tên thống lí Pá Tra tàn ác chịu phận nô lệ trên danh nghĩa làm dâu xoá nợ. Một cô gái sẵn sàng hi sinh bản thân để cứu lấy cha mẹ, cứu lấy gia đình chứng tỏ Mị là cô gái hết mực hiếu thảo, yêu thương cha mẹ mình. Mị khát khao tự do, ý thức được nhân phẩm và giá trị bản thân nhưng cường quyền của chế độ phong kiến thối nát đã trói buộc cuộc đời cô.
Advertisement
Về làm dâu nhà Pá Tra, Mị phải âm thầm chịu đựng bao nỗi bất công, thời gian đầu, đêm nào Mị cũng khóc thương cho số phận, cho cảnh hẩm hiu của đời mình, nàng đã bỏ hết tất thảy để tìm đến cái chết bằng nắm lá ngón để giải thoát những uất ức, khổ đau kìm nén bấy lâu. Nhưng khi nghĩ về cha, thương cha nàng lại không đành lòng, đành phó mặc cuộc sống, chấp nhận cuộc đời cơ cực với kiếp nô lệ đau thương của mình.
Trong nhà tên A Sử, Mị chịu bao nỗi đau thể xác và tinh thần, Mị khổ cực hơn cả trâu cả ngựa, công việc làm triền miên ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác chẳng nghỉ ngơi. Mị như một cái máy gắn bó với công việc từ hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay đến đi bẻ ngô, gánh nước, kiếm củi,…, không việc nào là không tới tay Mị.
Thể xác bị bóc lột, tinh thần Mị cũng không sướng là bao, nàng suốt ngày “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, tinh thần bị tê liệt đến đau khổ, Mị ngày càng ít nói, câm lặng hơn, chẳng còn nhận thức về thời gian và cuộc sống ngoài kia. “Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ bằng một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Dường như tuổi xuân của nàng bị khoá chặt trong ngôi nhà đó. Nàng ngày càng trở nên vô cảm.
Song, ẩn sâu trong con người Mị là một sức sống tiềm tàng không gì có thể ngăn nổi. Khi mùa xuân đến, không khí vui xuân ngày hội nơi bản làng Tây Bắc thật đẹp, thật tươi, khiến Mị bồi hồi nhớ lại những quá khứ tươi đẹp ngày xưa. Rượu và tiếng sáo rủ bạn tình khiến tâm hồn tươi trẻ của Mị như có dịp trỗi dậy, lòng Mị rạo rực sức sống mùa xuân “lòng Mị đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước”.
Từ niềm rạo rực, phấn chấn ấy đã thôi thúc Mị hành động dứt khoát và quyết liệt vô cùng. Cô lấy ống mỡ bỏ thêm vào đĩa dầu để thắp đèn, thắp lên thứ ánh sáng xua tan đi bóng tối rợn ngợp bao trùm, xua tan màn đêm bấy lâu vây quanh cuộc đời Mị, nhen nhóm ngọn lửa hy vọng cho cuộc đời chính mình. Rồi Mị “quấn tóc lại với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”, Mị muốn được là mình, được là một cô gái đẹp đẽ như bao người con gái khác trong đêm mùa xuân ấy.
Trong lúc sức trẻ đang trỗi dậy, lòng yêu đời đang sung sức với Mị thì thực tại phũ phàng đã nhẫn tâm vùi dập niềm yêu ấy. A Sử khi biết lòng Mị muốn đi chơi, hắn đã chặn đứng ngay ý định đó. Hắn trói vợ vào cột nhà bằng một thúng sợi đay, quấn lấy mái tóc dài của Mị lên cột khiến cô đau đớn không thể cử động được. Nhưng thể xác dù bị trói buộc, bị hành hạ vẫn không thể trói lấy tâm hồn đang thiết tha cuộc sống của nàng, khát vọng sống vẫn âm ỉ cháy trong con người Mị.
Hành động mãnh liệt nhất của cô là cắt dây trói cho A Phủ. Trong cơn đau đớn, Mị xót xa cho phận mình, thương cảm cho phận người, đó là sự đồng cảm với những kiếp người cùng chung số phận. Chính giọt nước mắt của A Phủ đã thức tỉnh Mị, hồi sinh trái tim đầy những vết sẹo đau thương. Mị quyết định cùng A Phủ chạy trốn. Giải thoát cuộc đời mình khỏi những sức mạnh tàn bạo của cường quyền, của bọn thống lí thiếu tình người, đồng thời chấm dứt cuộc đời nô lệ tăm tối, thương đau của chính mình.
Bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, khắc họa tính cách nhân vật qua suy nghĩ và hành động cùng lời văn nhẹ nhàng mà tinh tế, Tô Hoài đã xây dựng nên một hình tượng nhân vật Mị thật tiêu biểu và đặc sắc. Qua nhân vật, tác giả lên tiếng tố cáo chế độ áp bức tàn bạo, hà khắc của tầng lớp thống trị trong xã hội xưa và nói lên tiếng nói thương cảm trước những kiếp người chịu nhiều áp bức, bất công.
Tô Hoài là nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam với số lượng tác phẩm đạt kỉ lục. Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc của ông. Tác phẩm có một giá trị hiện thực và nhân đạo đáng kể. Truyện viết về cuộc sống của người dân lao động vùng núi cao, dưới ách thống trị tàn bạo của bọn thực dân phong kiến miền núi. Đặc biệt truyện đã xây dựng thành công nhân vật Mị, qua đó ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng và khả năng đến với cách mạng của nhân dân Tây Bắc .
Vợ chồng A Phủ in trong tập truyện Tây Bắc (1954). Tập truyện được tặng giải nhất – giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954- 1955.Tác phẩm ra đời là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn cùng với bộ đội giải phóng Tây Bắc năm 1952. Vợ chồng A Phủ mở đầu bằng cách giới thiệu nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịch lý và cuốn hút độc giả: “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.
Cách giới thiệu tạo ra những đối nghịch về một cô gái âm thầm lẻ loi, âm thầm như lẫn vào các vật vô tri: cái quay sợi, tảng đá, tàu ngựa; cô gái là con dâu nhà thống lí quyền thế, giàu có nhưng sao mặt lúc nào “buồn rười rượi”. Khuôn mặt đó gợi ra một số phận đau khổ , bất hạnh nhưng cũng ngầm ẩn một sức mạnh tiềm tàng.
Mị trước đó vốn là một người con gái đẹp. Mị có nhan sắc, và có khả năng âm nhạc, cô giỏi sáo và giỏi, uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”. Cô còn một tâm hồn tràn đầy khát khao cuộc sống, khát khao yêu đương. Quả thế, Mị đã được yêu, và đã khát khao yêu, trái tim từng đã bao nhiêu lần hồi hộp trước trước âm thanh hò hẹn của người yêu. Nhưng người con gái tài hoa miền sơn cước đó phải chịu một cuộc đời bạc mệnh. Để cứu nạn cho cha, cuối cùng cô đã chịu bán mình, chịu sống cảnh làm người con dâu gạt nợ trong nhà thống lí.
Tô Hoài đã diễn tả nỗi cực nhọc về thể xác của người con gái ấy, con người với danh nghĩa là con dâu, nhưng thực chất chính là tôi tớ. Thân phận Mị không chỉ là thân trâu ngựa, “Con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái ở cái nhà ngày thì vùi vào việc làm cả ngày lẫn đêm”.
Song nhà văn còn khắc họa đậm nét nỗi đau khổ về tinh thần của Mị. Một cô Mị mới hồi nào còn rạo rực yêu đương, bây giờ lặng câm, “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Và nhất là hình ảnh căn buồng Mị, kín mít với cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, Mị ngồi trong đó trông ra lúc nào cũng thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng. Đó quả thực là một thứ địa ngục trần gian giam hãm thể xác Mị, cách li tâm hồn Mị với cuộc đời, cầm cố tuổi xuân và sức sống của cô. Tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến miền núi ở đây đã được cất lên nhân danh quyền sống. Cái chế độ ấy đáng lên án, bởi vì nó làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi đi ngọn lửa của niềm vui sống trong những con người vô cùng đáng sống.
Mị đã từng muốn chết mà không được chết, vì cô vẫn còn đó món nợ của người cha. Nhưng đến lúc có thể chết đi, vì cha Mị không còn nữa thì Mị lại buông trôi, kéo dài mãi sự tồn tại vật vờ. Chính lúc này cô gái còn đáng thương hơn. Bởi muốn chết nghĩa là vẫn còn muốn chống lại một cuộc sống không ra sống, nghĩa là xét cho cùng, còn thiết sống. Còn khi đã không thiết chết, nghĩa là sự tha thiết với cuộc sống cũng không còn, lúc đó thì lên núi hay đi nương, thái cỏ ngựa hay cõng nước cũng chỉ là cái xác không hồn của Mị mà thôi.
Sức sống của Mị dường như mất đi. Nhưng bên trong cái hình ảnh con rùa lầm lũi kia dang còn một con người. Khát vọng hạnh phúc có thể bị vùi lấp, bị lãng quên trong đáy sâu của một tâm hồn đã chai cứng vì đau khổ, nhưng không thể bị tiêu tan. Gặp thời cơ thuận lợi thì nó lại cháy lên. Và khát vọng hạnh phúc đó đã bất chợt cháy lên, thật nồng nàn và xót xa trong một đêm xuân đầy ắp tiếng gọi của tình yêu .
Bức tranh Hồng Ngài mùa xuân năm ấy có sức làm say đắm lòng người tuổi trẻ. Gió rét, sắc vàng ửng của cỏ tranh, sự biến đổi màu sắc kì ảo của các loài hoa đẹp đã góp phần làm nên cuộc nổi loạn trong một tâm hồn đã bấy nhiêu năm tê dại vì đau khổ. Tác nhân quan trọng là hơi rượu. Ngày tết năm đó Mị cũng uống rượu, Mị lén uống từng bát, “uống ừng ực” rồi say đến lịm người đi. Cái say cùng lúc vừa gây sự lãng quên vừa đem về nỗi nhớ. Mị lãng quên thực tại (nhìn mọi người nhảy đồng, người hát mà không nghe, không thấy và cuộc rượu lúc nào cũng không hay) nhưng lại nhớ về ngày trước (ngày trước, Mị thổi sáo cũng giỏi …), và quan trọng hơn là Mị vẫn nhớ mình là một con người, vẫn có cái quyền sống của một con người: “Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi Mị và A Sử, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”.
Nhưng tác nhân có tác dụng nhiều nhất trong việc dìu hồn Mị bềnh bồng về với những khát khao hạnh phúc yêu đương có lẽ vẫn là tiếng sáo bởi tiếng sáo là tiếng gọi của mùa xuân, của tình yêu và tuổi trẻ. Tiếng sáo rập rờn trong đầu Mị, nó đã trở nên tiếng lòng của người thiếu phụ. Mị đã thức dậy với sức sống tiềm tàng và cảm thức về thân phận. Cho nên trong thời khắc ấy, ta mới thấy Mị đầy rẫy những mâu thuẫn. Lòng phơi phới nhưng Mị vẫn theo quán tính bước vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra cái lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Và khi lòng ham sống trỗi dậy thì ý nghĩ đầu tiên là được chết ngay đi.
Nhưng rồi nỗi ám ảnh và sức sống mãnh liệt của tuổi xuân cứ lớn dần, cho tới khi nó lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và suy nghĩ của Mị, cho tới khi Mị hoàn toàn chìm hẳn vào trong ảo giác: “Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi”. Phải tới thời điểm đó Mị mới có hành động như một kẻ mộng du: quấn lại tóc, với thêm cái váy hoa, rồi rút thêm cái áo. Tất cả những việc đó, Mị đã làm như trong một giấc mơ, tuyệt nhiên không nhìn thấy A Sử bước vào, không nghe thấy A Sử hỏi“.
Rồi cái gì đến đã đến. A Sử trói Mị vào cột, rồi lẳng lặng khoác thêm vòng bạc đi chơi, bỏ mặc Mị trong trạng thái mộng du đang chìm đắm với những giấc mơ về một thời xuân trẻ, đang bồng bềnh trong cảm giác du xuân. Tâm hồn Mị đang còn sống trong thực tại ảo, sợi dây trói của đời thực chưa thể làm kinh động ngay lập tức giấc mơ của kẻ mộng du. Cái cảm giác về hiện tại tàn khốc, Mị chỉ cảm thấy khi vùng chân bước theo tiếng sáo mà tay chân đau không cựa được. Nhưng nếu cái mơ không đến một lần nữa thì sự tỉnh ra cũng vậy. Lại một giai đoạn chập chờn nữa giữa cái mơ và cái tỉnh, giữa tiếng sáo và nỗi đau nhức của dây trói và tiếng con ngựa đạp vách, nhai cỏ, gãi chân. Nhưng bây giờ thì theo chiều ngược lại, tỉnh dần ra, đau đớn và tê dại dần đi, để sáng hôm sau lại trở về với vị trí của con rùa nuôi trong câm lặng, mà còn câm lặng hơn trước.
Nhưng có lẽ sức sống của Mị bùng lên mạnh mẽ nhất là lúc Mị cởi trói cho A Phủ. Cũng như Mị, A Phủ là nạn nhân của chế độ độc tài phong kiến miền núi. Những va chạm mang đầy tính tự nhiên của lứa tuổi thanh niên trong những đêm tình mùa xuân đã đưa A Phủ trở thành con ở gạt nợ trong nhà thống lí. Và bản năng của một người con vốn sống gắn bó với núi rừng, ham thích săn bắn đã đẩy A Phủ tới hiện thực phũ phàng: bị trói đứng. Và chính hoàn cảnh bi thương đó đã đánh thức lòng thương cảm trong con người Mị. Nhưng tình thương đó không phải tự nhiên bùng phát trong Mị mà là kết quả của một quá trình đấu tranh giằng xé trong thế giới nội tâm của cô. Mấy hôm đầu Mị vô cảm, thờ ơ với hiện thực trước mắt: “A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi”. Câu văn như một minh chứng sự tê dại trong tâm hồn Mị. Bước ngoặt bắt đầu từ những dòng nước mắt:“Đêm ấy A Phủ khóc. Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai má đã sạm đen. Và giọt nước mắt kia là giọt nước cuối cùng làm tràn đầy cốc nước. Nó đưa Mị từ cõi quên trở về với cõi nhớ. Mị nhớ mình đã từng bị trói, đã từng đau đớn và bất lực. Mị cũng đã khóc, nước mắt chảy xuống cổ, xuống cằm không biết lau đi được. A Phủ, nói đúng hơn là dòng nước mắt của A Phủ, đã giúp Mị nhớ ra mình, xót thương cho mình.
Và Mị đã nhớ lại mình, biết nhận ra mình cũng từng có những đau khổ, mới có thể thấy có người nào đó cũng khổ giống mình. Từ sự thương mình, Mị dần dần có tình thương với A Phủ, tình thương với một con người cùng cảnh ngộ. Nhưng nó còn vượt lên giới hạn thương mình: “Mình là đàn bà … chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi còn người kia việc gì mà phải chết ”. Mị cởi trói cho A Phủ để rồi bất ngờ chạy theo A Phủ. Lòng ham sống của một con người như được thổi bùng lên trong Mị, kết hợp với nỗi sợ hãi, lo lắng cho mình. Mị như tìm lại được con người thật, một con người còn đầy sức sống và khát vọng thay đổi số phận.
Nhà văn Tô Hoài đã viết về Mị với tất cả lòng yêu thương, thông cảm, và chỉ có lòng yêu thương thông cảm, Tô Hoài mới phát hiện ra vẻ đẹp tiềm tàng trong tâm hồn những con người ham sống như Mị.
Vợ chồng A Phủ qua việc khắc họa sâu sắc cuộc đời, số phận, tính cách Mị đã tố cáo hùng hồn, đanh thép những thế lực phong kiến, thực dân tàn bạo áp bức bóc lột, đọa đày người dân nghèo miền núi. Đồng thời nó cũng khẳng định khát vọng tự do hạnh phúc, sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của những người lao động. Đặc biệt đề cao sự đồng cảm giai cấp, tình hữu ái của những người lao động nghèo khổ. Chính điều này đem lại sức sống và sự vững vàng trước thời gian của Vợ chồng A Phủ trong những ngày tháng sưu cao thuế nặng. Để có tiền nộp sưu cho chồng (thuế thân) và người em chồng đã mất. Chị Dậu đã phải bán con, chị Dậu tưởng khổ đến thế là cùng, nhưng người phụ nữ bất hạnh ấy còn có một gia đình.
……………
Phân Tích Khổ 5 6 Bài Sóng ❤️️ 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Khổ 5 6 Bài Sóng ❤️️ Mẫu Cảm Nhận Khổ 5 6 7 Hay ✅ Với Những Ý Thơ Độc Đáo, Có Thể Nói Đây Là Đoạn Thơ Đặc Sắc Nhất Trong Cả Thi Phẩm
Phân Tích Khổ 5 6 Bài Sóng với những ý thơ vừa mang nét mạnh mẽ, táo bạo lại vừa đằm thắm, thiết tha.
Xuân Quỳnh là một nữ thi sĩ có phong cách nghệ thuật độc đáo. Những sáng tác của nhà thơ vừa mang nét mạnh mẽ, táo bạo lại vừa đằm thắm, thiết tha.
Xuân Quỳnh đã đóng góp cho nền thơ Việt Nam rất nhiều tập thơ hay và ý nghĩa. Trong đó phải kể đến các tập thơ: Hoa dọc chiến hào (1968), Sân ga chiều em đi (1984)… Bài thơ “Sóng” là một trong những bài thơ hay và đặc sắc nhất.
“Sóng” được Xuân Quỳnh sáng tác vào năm 1967 trong những ngày kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra ác liệt. Bài thơ nhằm bày tỏ nỗi nhớ nhung và khát vọng trong tình yêu của người phụ nữ. Đó cũng là những tình cảm đẹp đẽ nhằm trao tặng cho người mình yêu. Điều đó được thể hiện rõ ràng nhất trong hai khổ thơ năm và sáu của bài thơ:
Nói về tình yêu có rất nhiều nhà thơ lấy những hình ảnh khác nhau để biểu trưng cho thứ tình cảm ấy và Xuân Quỳnh đã lựa chọn hình tượng “sóng” để biểu thị cho tình yêu xuyên suốt trong bài thơ. Sóng là hiện thân cho tình yêu, cho người con gái đang yêu. Sóng cũng mang đến nhiều cung bậc cảm xúc cho người đọc.
Hình tượng sóng trong hiện thực mà chúng ta thường thấy nó cũng như vậy, có rất nhiều những trạng thái khác nhau, thậm chí là đối ngược nhau như: “Dữ dội và dịu êm/ Ồn ào và lặng lẽ”. Nhờ vào những liên tưởng về hình tượng con sóng mà chúng ta thấy được những đặc trưng của tình yêu đôi lứa mà được biểu hiện chủ yếu bằng nỗi nhớ:
Bằng việc lặp lại hai lần từ “con sóng” và đi kèm với nó là những vị trí khác nhau. “Sóng trên mặt nước” là con sóng ở bề nổi bên trên mà người ta có thể dễ dàng thấy được còn sóng dưới lòng sâu là những con sống ngầm dưới mặt nước ta khó lòng có thể biết được.
Như ta đã biết sóng là biểu trưng cho tình yêu, cho nỗi nhớ. Trong tình yêu, khi người ta xa cách nhau thường đem lại sự nhớ nhung tha thiết. Có những người đem nỗi nhớ nhung đó giấu trong lòng, không thổ lộ với ai và cũng có những người họ bày tỏ, biểu hiện nỗi nhớ đó ra bên ngoài.
Chúng ta có thể dễ dàng thấy được sóng là một hình ảnh hàm súc, gợi tả, gợi cảm và cũng là nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của Xuân Quỳnh.
Sóng là hình ảnh biểu trưng trạng thái bất ổn định của tình yêu. Xuân Quỳnh đã bày tỏ nỗi nhớ trong tình yêu bằng hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng “Ôi con sóng nhớ bờ”, “sóng” còn là biểu tượng cho người con gái trong tình yêu khi nhớ về người con trai đó là “bờ”.
“Sóng” và “bờ” là hai hình ảnh sóng đôi nhau ngoài đời thực, con “sóng” dù có đi xa tới mấy cũng trở về với “bờ”. Khi rời xa nhau thì sự nhớ nhung lại trỗi dậy mạnh mẽ đến nỗi “Ngày đêm không ngủ được”.
Nỗi nhớ thường trực biến thành sự thao thức đến nỗi không ngủ. Đến đây ta có thể thấy được sự quen thuộc mà những ai đã và đang yêu đều từng trải qua. Không chỉ sử dụng hình ảnh ẩn dụ mà Xuân Quỳnh còn biểu lộ trực tiếp:
Từ “sóng” với “bờ” đã chuyển sang thành “anh” với “em”. Anh với em giống với con sóng và bờ kia, cũng chứa đựng những cung bậc cảm xúc như vậy đó là nỗi nhớ trong em cũng không thua kém gì với sóng.
Nếu như “sóng” ngày đêm không ngủ, thao thức thì em ở một cấp độ cao hơn đó là thức ở chính trong giấc mơ của mình. Ý nói rằng dù thức hay ngủ thì nỗi nhớ vẫn xâm chiếm. Nỗi nhớ ấy còn được nhấn mạnh hơn nữa trong bốn câu tiếp theo:
Tác giả đã sử dụng phép đối lập giữa “Bắc và Nam”, giữa “xuôi và ngược” để thể hiện nỗi nhớ và tình yêu tha thiết của cô gái với chàng trai. Thông thường người ta thường nói “xuôi Nam”, “ngược Bắc” nhưng Xuân Quỳnh đã nói ngược lại qua đó cho thấy tình yêu không theo một quy luật chủ thể, có thể đi ngược lại với thực tế.
Có thể nói dù ở bất cứ đâu, dù có muôn vàn những khó khăn, cách trở thì người con gái ấy vẫn thủy chung, son sắt một lòng với người mình yêu thương.
Đoạn thơ thể hiện những tâm tình xao xuyến, trăn trở đi kèm với những nồng nhiệt say mê của người con gái trong tình yêu. Qua đó cũng thể hiện nỗi khát vọng tình yêu, khát khao được yêu thương được nếm trải những cung bậc tình yêu trong cuộc sống của nhà thơ.
Gợi ý cho bạn những nội dung đặc sắc có trong bài viết chọn lọc 🌹 Phân Tích 2 Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang 🌹
Phân Tích Khổ 5 6 Bài Sóng Hay với vẻ đẹp của hồn thơ Xuân Quỳnh được cất lên thành lời tình ca ngọt ngào và thiết tha.
“Sóng” của Xuân Quỳnh (1942 – 1988) là một bài thơ tình rất đẹp. Vẻ đẹp của một tâm hồn khao khát yêu thương trong mối tình đầu rạo rực của thiếu nữ. Vẻ đẹp của nhạc; nhạc của lòng cũng là nhạc của thơ, nhạc của sóng reo, sóng vỗ. Vẻ đẹp của men say tình ái được cất lên thành lời ca ngọt ngào, tha thiết biết bao:
Hình tượng “sóng” đầy thi vị. Bất cứ ở đâu, dù ở “dưới lòng sâu” hay ở “trên mặt nước”, thì sóng vẫn “nhớ bờ”. Dù cả trong ngày và trong đêm dài vắng vẻ, sóng vẫn “không ngủ được”. Các động từ – vị ngữ: “nhớ bờ”, “không ngủ được” đã được nữ sĩ dùng rất đắt, tinh tế và biểu cảm, đem đến cho ta bao cảm xúc đẹp về tình yêu:
Nỗi nhớ ấy rất mãnh liệt. Dù ở không gian nào “dưới lòng sâu hay “trên mặt nước”, dù ở thời gian nào “ngày” cũng như “đêm”, sóng vẫn “nhớ”, sóng vẫn bồn chồn, thao thức “không ngủ được”.
Lấy không gian và thời gian để “đo” nỗi nhớ của em, tác giả đã thể hiện một cách sâu sắc một tâm hồn luôn luôn trăn trở, khao khát được yêu thương. Sóng đã được nhân hóa mang hồn em và tình em. Từ cảm “ôi” xuất hiện trong đoạn thơ như một tiếng lòng chấn động rung lên: “Ôi con sóng nhớ bờ…”.
Từ hiện tượng sóng vỗ xôn xao suốt đêm ngày trên đại dương, nữ sĩ liên tưởng đến tình cảm của thiếu nữ:
“Cả trong mơ” và cả khi “còn thức”, trong thực và trong mộng, em vẫn “nhớ đến anh”. Hình bóng chàng trai – người tình đã choáng ngợp tâm hồn cô gái. Yêu là sự hòa nhập hai tâm hồn.
Sóng trên đại dương là biểu tượng cho sự sống muôn đời, cũng như tình yêu của “em” đối với “anh” mãi mãi là nỗi khao khát nhớ thương, mong đợi, trong không gian, trong thời gian, và “cả trong mơ còn thức”. Xuân Quỳnh đã có một cách nói mới mẻ, một cách diễn đạt độc đáo khi thể hiện nỗi nhớ trong tình yêu, của “em”. Ta hãy trở về với ca dao:
Hay:
Hay:
Qua đó, ta mới cảm thấy cái ý vị đậm đà của ngôn từ, cái cảm xúc nồng cháy của tâm hồn thiếu nữ: “Lòng em nhớ đến anh – Cả trong mơ còn thức”.
Tình yêu luôn luôn đối diện với bao thử thách, trong đó có sự cách trở về thời gian và không gian. Sự cách trở ấy đã làm cho tâm hồn thiếu nữ, tâm hồn “em” thêm đẹp, đinh ninh lời thề nguyền “Trăm năm một chữ đồng đến xương” (Truyện Kiều).
Lứa đôi ngày xưa, với sức mạnh của tình yêu, họ quyết tâm vượt qua mọi thử thách “Tam tứ núi cũng trèo, ngũ lục sông cũng lội, thất bát đèo cũng qua” để được sống dưới một mái ấm hạnh phúc đời đời bên nhau.
Với “em” thì dù đi đâu, dù có lên thác xuống ghềnh, “Dẫu xuôi về phương Bắc – Dẫu ngược phương Nam” trong bom đạn thời chiến tranh chống Mỹ (1967), lòng em vẫn “Hướng về anh một phương”, hướng về “anh”, người mà “em” thương nhớ, đợi chờ:
Các điệp ngữ: “dẫu xuôi về”, “dẫu ngược về”, “phương” (phương Bắc, phương Nam, một phương) đã liên kết với các từ ngữ: “Em cũng nghĩ”, “hướng về anh” làm cho niềm tin đợi chờ trong tình yêu được khẳng định một cách mạnh mẽ. Chữ “một” trong câu thơ “hướng về anh một phương” đã thể hiện một tình yêu sắt son thủy chung.
Xuân Quỳnh đã viết nên những vần thơ ngũ ngôn có nhạc điệu ngân vang tha thiết, có hình tượng sóng và hình tượng em rất đẹp. Các ẩn dụ và liên tưởng đầy tính nhân văn.
Cấu trúc song hành (câu 1 với 2, câu 3, 4 với câu 7, 8) và các điệp ngữ (sóng… dẫu… về, phương) đã tạo nên âm điệu triền miên, liên hồi như tiếng sóng vỗ xôn xao, bồi hồi trong lòng “em”.
“Yêu là chết ở trong lòng một ít” – Không! Với Xuân Quỳnh, thì tình yêu là “khát vọng, đã làm cho thiếu nữ hồn hậu hơn, cao quý hơn. Bởi lẽ:
Giới thiệu cùng bạn 🍀 Cảm Nhận Bài Thơ Từ Ấy 🍀 được chọn lọc đặc sắc.
Phân Tích Khổ 5 6 7 Bài Sóng Ngắn chia sẻ video hướng dẫn ôn tập tác phẩm thơ đặc sắc của Xuân Quỳnh trong chương trình môn ngữ văn phổ thông.
Mời bạn đọc nhiều hơn với trọn bộ 🔥 Cảm Nhận Bài Thơ Tỏ Lòng 🔥 đặc sắc và ý nghĩa.
Bài Văn Phân Tích Bài Thơ Sóng Khổ 5 6 7 – đoạn thơ đã chạm đến tất cả trái tim của người đọc bằng những cảm xúc tự nhiên nhất, thổn thức nhất.
Nhắc đến thơ tình không thể không nhắc đến nữ thi sĩ Xuân Quỳnh, một trong những nhà thơ nổi bật của nền thơ hiện đại Việt Nam. Xuân Quỳnh viết về tình yêu rất thực, thơ bà da diết, dạt dào nhưng cũng đầy quyết liệt, mạnh mẽ. Vào những năm 1967, khi mà đất nước ta đang trong những ngày chống giặc cứu nước.
Bên cạnh những bản hùng ca chiến trận ca ngợi tinh thần cách mạng của các chiến sĩ thì còn có những bản tình ca của đời sống, Xuân Quỳnh đã viết nên bài thơ “Sóng” mang nét riêng giữa muôn vàn vẻ đẹp của thơ ca vào khoảng thời gian này.
“Sóng” đã thể hiện thật sinh động những vẻ đẹp trong tâm hồn của nữ thi sĩ đồng thời cho thấy được tài năng trong ngòi bút của Xuân Quỳnh khi bộc lộ những cảm xúc tình cảm nội tâm đầy tinh tế qua thơ.
Thi phẩm “Sóng” đã đưa độc giả đến với những chân trời của những cảm xúc vui buồn, lắng lo, hạnh phúc và cả chân trời của sự thủy chung trong tình yêu. Những nguồn xúc cảm da diết, đậm sâu trong tình yêu được thể hiện rõ nhất của khổ 5, 6, 7 của bài thơ.
Xuân Quỳnh đã rất tinh tế dùng hình ảnh sóng để chỉ em- người con gái đang yêu. Em cũng như con sóng ngoài biển cả dạt dào, dù là dưới đáy sâu nơi đại dương rộng lớn hay chỉ thoáng qua lênh đênh trên mặt biển thì vẫn luôn nhớ về anh- người mà em yêu.
Nỗi nhớ ấy đã vượt cả không gian rộng lớn, biển kia có sâu rộng cũng không đo được bằng nỗi nhớ nơi em. Sóng biển cũng chính là những cơn sóng lòng đang cuộn trào dữ dội trong em, nỗi nhớ về người thương thật mạnh mẽ biết bao.
Tiếng “Ôi” cất lên nghe thật tha thiết, nỗi nhớ trào dâng nơi sâu thẳm trái tim người con gái. Con sóng ngoài kia vẫn cứ thế theo từng đợt gió, dù êm đềm hay dữ dội ngày đêm vẫn vỗ tới bờ, vẫn tìm đến bờ thì em cũng như thế, cũng nhớ anh ngày đêm, mong được đến bên anh.
Nỗi nhớ khôn nguôi ấy luôn thường trực trong tâm trí, khiến “em” không khỏi thao thức, trăn trở “không ngủ được”, ngay cả trong giấc mơ vẫn là bóng hình của người thương trong đó.
Nỗi nhớ vượt lên cả sự chảy trôi của thời gian, của ngày đêm yêu, của tháng năm yêu. Tình cảm nơi tâm hồn Xuân Quỳnh thật chân thành, thắm thiết, sâu sắc và mãnh liệt biết bao.
Nỗi nhớ ấy tựa như nỗi nhớ của người con gái xưa:
Tình yêu thật nồng cháy, dẫu cho có khoảng cách xa xôi, có mỗi người mỗi hướng thì lòng thủy chung, son sắt vẫn luôn cháy mãi nơi đáy lòng. Dù người tình có ở nơi đâu, có ở chốn phương Bắc lạnh giá hay chốn trời Nam xa xôi thì cũng không làm em nản lòng mà thôi nhớ, thôi nghĩ về anh.
Khoảng cách có sá gì đâu khi tim luôn nhìn về một hướng- hướng anh- phương hướng tình yêu chúng mình. Khoảng cách địa lý không thắng nổi sự yêu thương của tình yêu mãnh liệt, khi trái tim hai con người đã gắn kết như sợi tơ hồng đã se duyên, khi người kia đã đặt trọn vẹn niềm tin cho đối phương của mình.
Điệp từ “dẫu” kết hợp với hai cụm động từ “ngược về phương Nam” ,” xuôi về phương Bắc” như một cách thể hiện những thách thức, trắc trở trong tình yêu và sự chiến thắng khó khăn ấy bằng tình yêu mãnh liệt.
Lời nguyện thề nơi nào em cũng hướng về anh thật đáng quý, đáng trân trọng biết bao. Là một người con gái, nhưng Xuân Quỳnh không hề đứng đó là đợi chờ tình yêu, nhà thơ luôn thể hiện sự chủ động của mình.
Với nhà thơ, tình yêu luôn phải rõ ràng và bình đẳng, đã yêu là phải sống thật trọn vẹn, hết lòng với tình yêu, bởi thế mà những vần thơ không chỉ mang nét dễ thương, đáng yêu mà còn đầy rắn rỏi, quyết liệt và dứt khoát.
Trong cuộc sống, mỗi công việc đều có những khó khăn và áp lực riêng cũng như trong tình yêu vậy, mỗi mối tình đều có những trắc trở, thử thách nhất định. Song, nếu cùng nhau cố gắng, cùng nhau vun đắp, cùng hiểu và bao dung cho nhau thì rồi tình yêu cũng sẽ kết thành trái ngọt, ngày mà tình yêu được đến đích cuối cùng của bến bờ hạnh phúc:
Sóng biển ngoài đại dương bao la kia cũng vượt qua bao giông tố, gió mưa mới vỗ tới bờ cát bình yên. Cũng như tình yêu anh và em cũng phải cùng nhau cố gắng, nắm tay nhau bước qua những gian truân, cám dỗ và sóng gió của cuộc đời mới tới ngày trọn vẹn. Ca dao xưa có câu:
Tình yêu là sức mạnh hay chính tình yêu đã mang lại sức mạnh lớn lao như thế.
Ba khổ thơ tuy không quá dài nhưng cũng đủ để ta thấy được một tâm hồn yêu hết mình, sống hết mình với tình yêu của nữ sĩ Xuân Quỳnh.
Tiếng thơ ấy cũng chính là nỗi lòng của bao người đang yêu và được yêu, đặc biệt là những thanh niên trẻ tuổi giàu khát vọng yêu. “Sóng” đích thực đã chạm đến tất cả trái tim của người đọc bằng những cảm xúc tự nhiên nhất, khiến họ rung cảm và thổn thức với từng thanh âm, giai điệu của bài thơ.
Cùng với Phân Tích Khổ 5 6 Bài Sóng, chúng tôi tặng bạn tuyển tập 💧 Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ 💧 giàu cảm xúc!
Phân Tích Khổ 5 6 Bài Sóng Ngắn Gọn mà vẫn đầy đủ những nội dung cơ bản về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ.
Cảm xúc chính là điệu hồn của bài thơ, vậy nên “thơ hay là thơ chín đỏ cảm xúc” (Xuân Diệu). Ở hai khổ thơ năm và sáu, Xuân Quỳnh đã phổ cả điệu hát của tâm hồn mình vào đó, rồi mang nỗi nhớ trong tình yêu lên một tầng cảm xúc mới. Đồng thời, cũng khẳng định nét đẹp tâm hồn bao đời nay của người phụ nữ Việt Nam truyền thống.
Nỗi nhớ là cung bậc cảm xúc muôn thuở trong tình yêu, nhưng nỗi nhớ ấy qua màng lọc tâm hồn của mỗi nhà thơ lại được tái hiện một cách riêng, độc đáo và mang đậm phong cách của người nghệ sĩ ấy.
Ca dao mang nỗi nhớ vào bằng cách diễn đạt giản dị, giống như tâm hồn mộc mạc của người dân xưa “Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ/ nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai”?
Cái ngẩn ngơ ấy, đến thơ trung đại được diễn đạt bằng những hình ảnh hàm súc, cô đọng hơn, nỗi nhớ làm hao huyết cả thời gian, mà cũng như đang giằng xé con người trong niềm cô đơn đợi chờ mòn mỏi “ba thu dọn lại một ngày dài ghê”.
Đến thơ mới, Nguyễn Bính mang nỗi niềm tương tư ấy của mình giăng mắc khắp các miền không gian, nỗi nhớ của con người chuyển dịch thành không gian nhớ nhau, cái nhớ trong thơ Nguyễn mới thật đậm chất của một nhà thơ chân quê.
Đến Xuân Quỳnh nỗi nhớ vẫn là cảm xúc da diết, bổi hồi bồi hồi ấy trong tình yêu, nhưng được biểu đạt qua hình tượng sóng nên càng mang sức gợi mới mẻ, hấp dẫn, hiện đại. Con sóng dào dạt, đại dương mênh mông, vì thế mà vừa gợi nỗi nhớ, vừa gợi cơn khát mong cồn xé của trái tim.
Nỗi nhớ ấy không được ngoại hiện, nhưng lại nhấn chìm thời gian vượt mọi không gian, xâm chiếm cả trong tiềm thức ý thức, vô thức, để đạt đến đường biên của khả giải, bất khả giải.
Tưởng chừng như trái tim yêu tha thiết mà cũng mãnh liệt đấy đang tự hát lên điệu hồn mình, đang mang nỗi nhớ lấp đầy pháp trường trắng cô đơn cô độc ấy. Nỗi nhớ một lần nữa xuất hiện, và đến Xuân Quỳnh thực sự đã mang một sắc thái biểu đạt mới.
Thế giới trong trái tim em, chỉ có một phương anh duy nhất. lời khẳng định chắc nịch ấy của một trái tim yêu vừa tha thiết mà cũng thật mãnh liệt biết bao. Đó chẳng phải là tấm lòng thủy chung, son sắt của người phụ nữ Việt Nam muôn thuở trong tình yêu ư?
Do đó, ta thấy ở đây, Xuân Quỳnh đã đi vào hồn mình, tự hát điệu hồn mình, nhưng lại chạm đến hồn muôn người, muôn nẻo, khơi gợi sự đồng cảm mãnh liệt trong tâm hồn người đọc.
Thơ Xuân Quỳnh xưa nay vẫn vậy, vẫn nhỏ nhẹ, khiêm nhường, để lắng lòng cùng ta về những tâm tình đã cũ, về những câu chuyện tưởng như đã phai màu trong cuộc sống hiện tại, nhưng đó mới chính là những giá trị vĩnh hằng mà nhân loại hướng đến, do đó mà có sức trường cửu mãnh liệt trong tâm hồn người đọc.
Tiếp tục với Phân Tích Khổ 5 6 Bài Sóng, tặng bạn trọn bộ 😁 Cảm Nhận Về Bài Thơ Câu Cá Mùa Thu 😁.
Phân Tích Khổ 5 6 Bài Sóng Facebook sưu tầm một bài phân tích thật đặt sắc về đoạn thơ hay nhất trong tác phẩm Sóng của Xuân Quỳnh.
Xuân Quỳnh là người con của vùng đất Hà Thành. Nữ sĩ là một trong những nhà thơ viết thơ tình hay nhất trước 1975, là nhà thơ tiêu biểu của thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của người phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên vừa tươi tắn, vừa chân thành đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường. Trong sáng tác của mình Xuân Quỳnh đã để lại cho bao nhiêu thế hệ rất nhiều tác phẩm hay và giàu ý nghĩa.
Tiêu biểu là bài thơ “Sóng”, đây chính là tiếng thơ bày tỏ trực tiếp những khao khát sôi nổi, mãnh liệt mà chân thành, tự nhiên của một trái tim phụ nữ trong tình yêu. Và nổi bật lên trong bài “Sóng” là viết về nỗi nhớ, sự thủy chung được thể hiện qua đoạn thơ sau:
Bài thơ “Sóng” là kết quả của chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền-Thái Bình cuối năm 1967 và được đưa vào tập thơ “Hoa dọc chiến hào”- Tập thơ đầu tay của Xuân Quỳnh vào năm 1968.
Những năm tháng mà khắp nơi trên đất nước này đều diễn ra “cuộc chia li màu đỏ”. Vậy nhưng Xuân Quỳnh không viết về những tình cảm lớn của con người Việt Nam thời kháng chiến mà người phụ nữ ấy viết về tình yêu. Vì thế bài thơ được xem là bông hoa lạ “nở dọc chiến hào” trong những năm tháng chống Mĩ cứu nước.
Hình tượng xuyên suốt bài thơ vẫn là hình tượng “sóng”- sóng ở đây được Xuân Quỳnh gửi vào đó bằng cả tâm hồn người con gái khi đang yêu. Mượn sóng để nói đến người phụ nữ và tình yêu của họ. Bài thơ nói chung và đoạn thơ nói riêng là tiếng lòng riêng tư rất đỗi đời thường của Xuân Quỳnh.
Ta bắt gặp một Xuân Diệu nồng nàn, đắm say và dâng hiến trong tình yêu, một Anh Thơ tha thiết nhưng thẹn thùng cái duyên con gái.
Nhưng chỉ đến Xuân Quỳnh cái khát vọng rất đỗi chân tình, đời thường của con người đó được bộc bạch, mà bộc bạch một cách chân thành như chính cuộc đời nhà thơ này, một thứ tình yêu vừa phong phú, phức tạp, vừa thiết tha, sôi nổi của một trái ttim phụ nữ đang rạo rực, đang khát khao yêu thương.
Tình yêu cũng như những con sóng, người ta chỉ nhìn thấy những con sóng trên mặt nước ngày đêm vỗ vào bờ nhưng sóng biển không chỉ có những con sóng hiện hữu mà chúng ta nhìn thấy mà còn có những con sóng âm ỉ dưới lòng đại dương âm thầm và mãnh liệt.
Cũng như sóng – tình yêu của người phụ nữ không chỉ được nhìn thấy qua vẻ bên ngoài mà còn là tận đáy sâu trong tâm hồn người phụ nữ mà chỉ những ai thật tinh tế nhạy cảm, có chiều sâu tâm tưởng mới có thể nhận ra những ẩn kín ấy trong tâm hồn người phụ nữ đang yêu.
Xuân Quỳnh khéo léo dùng phép nhân hóa để khẳng định dù con sóng trên mặt nước hay dưới lòng sâu thì vẫn luôn nhớ bờ thao thức, ngày đêm không ngủ:
Con sóng ngày đêm không ngủ bởi nỗi nhớ bờ hay chính là nỗi nhớ rạo rực, da diết của người con gái khi yêu? Nỗi nhớ ấy chiếm lĩnh cả không gian và thời gian, cả trong những giấc mơ
Trong tình yêu không chỉ không thể tìm ra ngọn nguồn của tình yêu mà nhiều khi có những điều phi lí của cuộc sống lại trở nên có lí trong tình yêu. Ngay cả trong giấc mơ mà vẫn còn thức để nhớ đến anh.
Phải chăng tình yêu là như thế.Yêu là nhớ! Nỗi nhớ choán đầy, nồng nàn, da diết, mãnh liệt. Nhớ cả trong mơ cũng như khi còn thức, nỗi nhớ không chỉ chiếm lĩnh ý thức mà thấm sâu vào cả tiềm thức, yêu anh là nghĩ về anh, luôn luôn nghĩ về anh.
Xuân Quỳnh đã diễn đạt nỗi nhớ thật độc đáo. Nỗi nhớ cứ tồn tại, hiện diện trong tâm hồn, nó không bao giờ lắng xuống là luôn trào dâng mãnh liệt, quay quắt không nguôi.
Người con gái khi yêu không chỉ táo bạo, mãnh liệt, dám thổ lộ, dám bày tỏ khát khao tình yêu mãnh liệt mà còn mang trong mình vẻ đẹp truyền thống của người con gái thủy chung, nghĩa tình.
Điệp từ “dẫu”như khẳng định bao nhiêu thử thách, khó khăn phải vượt qua dù không gian mở rộng đa chiều với phương bắc và phương nam đầy xa cách. Nhưng Xuân Quỳnh có cách thể hiện thật đặc biệt.
Người ta thường nói ngược Bắc, xuôi Nam vậy nhưng Xuân Quỳnh lại diễn tả thật đặc biệt xuôi Bắc, ngược Nam như muốn tô đậm những trắc trở trong cuộc sống, những khó khăn trong tình yêu nhưng dù như thế nào đi chăng nữa, dù điều gì xảy ra thì người con gái ấy vẫn mãi thủy chung, hướng về người con trai với tình yêu trọn vẹn, duy nhất.
Chính tình yêu mãnh liệt ấy như là một động lực để nhà thơ tin tưởng vào tình yêu của chính mình như con sóng kia mãi vỗ vào bờ.
Đoạn thơ trên trong bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh, tác giả không chỉ thành công ở nội dung mà còn thành công ở mặt nghệ thuật trong việc sử dụng thể thơ năm chữ truyền thống, cách ngắt nhịp gieo vần độc đáo, giàu sức liên tưởng, xây dựng hình tượng ẩn dụ, giọng thơ tha thiết
Qua đoạn thơ Xuân Quỳnh đã khắc họa về nỗi nhớ mãnh liệt và lời thề thủy chung tuyệt đối trong tình yêu dù đi đâu về đâu vẫn hướng về người mình thương nhớ, chờ đợi. Đồng thời nữ sĩ còn thể hiện vẻ đẹp của người phụ nữ trong tình yêu được thể hiện qua hình tượng sóng.
Tình yêu tha thiết nồng nàn đầy khát vọng vượt lên trên giới hạn của đời người. Đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung đã để lại trong lòng bạn đọc một dấu ấn sâu sắc, khó phai nhòa. Trong biển lớn tình yêu cuộc đời hôm nay đã có biết bao con sóng tới bờ và tìm về bờ .
Tình yêu vẫn luôn luôn là đề tài hấp dẫn với mọi lứa tuổi để mọi người đi tìm lời giải đáp cho ẩn số tình yêu trong một hành trình tìm kiếm không mệt mỏi. sống là được yêu, yêu là sống hết mình với cuộc đời vốn rất nhiều yêu thương này.
Ngoài Phân Tích Khổ 5 6 Bài Sóng, xem nhiều hơn những nội dung đặc sắc trong 🌹 Phân Tích 7 Câu Thơ Đầu Bài Đồng Chí 🌹
Phân Tích Khổ 5 6 Bài Sóng Học Sinh Giỏi với một tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Quỳnh nồng nàn và tha thiết tình yêu cháy bỏng.
Xuân Quỳnh thuộc một số những nhà thơ lớp đầu tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong thời kì chống Mĩ cứu nước. Nhận xét về ngôn ngữ thơ của nữ sĩ, giáo sư Chu Văn Sơn cho rằng: “Thơ Xuân Quỳnh là thơ của một cánh chuồn chuồn bay tìm chỗ nương thân trong nắng nôi giông bão của cuộc đời…
Thế giới thơ ca Xuân Quỳnh là sự tương tranh không ngừng giữa khắc nghiệt và yên lành với những biểu hiện sống động và biến hóa không ngừng của chúng”. Và “Sóng” là một bài thơ hay, đã làm rõ những điểm sáng đó trong phong cách thơ Xuân Quỳnh, nhất là hai khổ thơ năm và sáu.
Dù không thể cắt nghĩa được cội nguồn của tình yêu nhưng Xuân Quỳnh đã phát hiện ra một tín hiệu cơ bản của tình yêu, nhất là khi những tâm hồn yêu phải xa cách: Tình yêu luôn đồng hành cùng nỗi nhớ, và tương tư là căn bệnh phổ biến của tất cả những người đang yêu. Có nỗi nhớ tha thiết mà lặng thầm trong ca dao:
Có nỗi nhớ được đo bằng không gian:
Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Có nỗi nhớ được đo bằng thời gian:
Ở đây để diễn tả những cảm xúc nhung nhớ trong tình yêu, Xuân Quỳnh tiếp tục mượn hình tượng sóng:
Hình ảnh con sóng được điệp lại ba lần trong bốn dòng thơ giống nhau như những đợt sóng gối lên nhau, hối hả vươn tới bờ, như đoạn điệp khúc da diết của một bản tình ca. Nghệ thuật đối đã đặt sóng vào những không gian, thời gian khác nhau.
Dù trên mặt nước hay dưới lòng sâu, dù ngày hay đêm, con sóng luôn mang trong mình nỗi nhớ bờ da diết.
Đó cũng là ẩn dụ về những đợt sóng lòng đang trào dâng trong trái tim người phụ nữ đang yêu, sóng nhớ bờ như em nhớ anh “ngày đêm không ngủ được”, một nỗi nhớ bao trùm cả không gian, đầy ắp theo thời gian, một nỗi nhớ cồn cào da diết, không thể nào yên, không thể nào nguôi, cứ cuồn cuộn, dạt dào như những con sóng triền miên vô hồi vô hạn.
Và phải chăng, những rung cảm mãnh liệt của trái tim đã buộc lời thơ phải dài thêm ra để diễn tả cho thỏa cái ngút ngàn của nỗi nhớ:
Đây là khổ thơ đặc biệt nhất trong bài thơ bởi nó kéo dài thêm hai dòng thơ. Cảm xúc nhớ thương trào dâng mãnh liệt đã làm ý thơ bị xô đẩy, khuôn khổ thơ phải lung lay. Sự xuất hiện của khổ thơ đặc biệt này đã tạo nên một liên tưởng độc đáo: cả bài thơ là con sóng lớn, khổ thứ năm là đỉnh sóng và cũng là đỉnh điểm của cảm xúc.
Mượn sóng để diễn tả nỗi nhớ đã là sâu sắc và mãnh liệt lắm nhưng với Xuân Quỳnh, điều đó dường như là chưa đủ, tác giả đã để cho nhân vật trữ tình trực tiếp đứng ra bộc bạch nỗi lòng mình.
Nếu nỗi sóng nhớ bờ còn phân biệt ngày đêm thì nỗi em nhớ anh đã phá vỡ mọi giới hạn thời gian. Nỗi nhớ không chỉ tồn tại trong ý thức mà còn trong cả tiềm thức, thậm chí có cảm giác nếu còn có một cõi nào nữa có thể tới được, Xuân Quỳnh sẽ tìm tới để được sống trọn vẹn với tình yêu. Ý thơ Xuân Quỳnh ở đây có gì thật gần với ca dao:
Tác giả dân gian mượn “khăn, đèn, mắt” để diễn tả nỗi nhớ nhung khắc khoải của người con gái đang yêu, và cuối cùng không cần một ẩn dụ, hoán dụ nào nữa, chính em đã trực tiếp bộc bạch nỗi lo âu tình duyên hạnh phúc.
Như vậy tứ thơ của Xuân Quỳnh không mới nhưng niềm khát khao phá vỡ mọi giới hạn để mở rộng chiều kích, biên độ của cuộc sống và tình yêu thì thực sự là táo bạo hiện đại.
Quan niệm tình yêu của Xuân Quỳnh rất mới mẻ nhưng vẫn có gốc rễ rất sâu của đạo lý truyền thống:
Dưới hình thức nói ngược, những câu thơ trên như thoáng qua một chút thách thức. Thông thường người ta nói “ngược về phương Bắc, xuôi về phương Nam”, Xuân Quỳnh nói ngược lại với hàm ý sâu xa: Dù cuộc đời có đảo điên, dù vật đổi sao rời, dù xuôi hóa ngược, dù cho ở đâu, em như kim chỉ nam, em luôn hướng về anh – “một phương”.
Xuân Quỳnh rất hiếm khi quyết liệt trong thơ. Đây có lẽ là lần nhà thơ tỏ ra quyết liệt nhất là để bảo vệ tình yêu chung thủy. Nữ sĩ luôn biết vun đắp chắt chiu để bảo vệ hạnh phúc đời thường. Nhà thơ chưa bao giờ kiêu sa để triết lý về tình yêu.
Tình yêu vốn là đề tài muôn thuở của thơ ca. Trong tình yêu, con người luôn có nhu cầu được chia sẻ, giãi bày. Có thể nói, trong bài thơ này, với “Sóng”, Xuân Quỳnh đã tìm thấy một hình tượng nghệ thuật độc đáo, phù hợp để nói lên một cách đầy đủ và chân thật những biểu hiện đa dạng trong tâm hồn người phụ nữ đang yêu.
Ngoài Phân Tích Khổ 5 6 Bài Sóng, giới thiệu với bạn tuyển tập 🌨 Cảm Nhận Bài Thơ Ánh Trăng 🌨
Phân Tích Khổ 5 6 Bài Sóng Chi Tiết để thấy được một hồn thơ Xuân Quỳnh với khát vọng tình yêu tha thiết cùng những rung động và trăn trở với cuộc đời.
Tình yêu là đề tài đầy ma lực với bao ngòi bút thơ ca, là cung đàn muôn điệu làm rung động bao trái tim yêu để từ đó ngân lên thành lời thơ nhân loại.
Mỗi một nhà thơ đều có những cảm nhận khác nhau về tình yêu: “Một Tago đầy triết lý ngụ ngôn; một Puskin nồng nàn và cao thượng, một Xuân Diệu rạo rực, đắm say, vồ vập; một Hàn Mặc Tử say đắm mà bơ vơ…”.
Và đến với bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh ta lại bắt gặp một cảm xúc tình yêu đầy trăn trở khát khao của một tâm hồn người phụ nữ luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường. Đặc biệt, trong bài thơ, hai khổ thơ năm và sáu nói về nỗi nhớ và sự thủy chung trong tình yêu để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc.
Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ nữ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ trong thời kì kháng chiến chống Mỹ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên tươi tắn vừa chân thành đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường.
“Sóng” là bài thơ tình yêu đặc sắc của Xuân Quỳnh, in trong tập “Hoa dọc chiến hào”. Đoạn thơ trên là khổ năm và sáu của bài thơ “Sóng” – tình yêu gắn liền với nỗi nhớ và lời thề thủy chung.
Khổ thơ thứ năm là khổ thơ đặc biệt nhất trong bài thơ “Sóng” – bởi nó có sáu câu. Dường như nỗi nhớ không thể đong đầy trong bốn dòng thơ ngắn ngủi nên Xuân Quỳnh đã chắp bút thêm hai câu thơ nữa để cân bằng nỗi nhớ cháy bỏng mãnh liệt của trái tim người phụ nữ khi yêu.
Bằng thủ pháp nhân hóa và ẩn dụ, nhà thơ mang đến cho người đọc nỗi nhớ của sóng về bờ đồng thời cũng là nỗi nhớ của em về anh.
Tình yêu luôn gắn liền với nỗi nhớ bởi nỗi nhớ chính là giai điệu là hợp âm chủ đạo của tình yêu.
Thơ xưa nói “nhất nhật bất kiến như tam thu hề” (một ngày không gặp mà ngỡ như đã ba năm); trong tình yêu, nỗi nhớ là thước đo khoảng cách “nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời” (Chinh phụ ngâm); tình yêu có khi muốn quên lại càng nhớ: “Nói rằng quên, có dễ quên/ Mỗi chiều em đứng bên hiên nhớ chàng” (Thanh Tâm).
Với Xuân Quỳnh, nỗi nhớ người mình yêu ngập tràn khắp nẻo:
Hai câu thơ với hình thức lặp cấu trúc “con sóng – con sóng” quyện hòa cùng nghệ thuật đối “dưới lòng sâu – trên mặt nước” tạo nên sự điệp trùng của những con sóng với nhiều dạng thức khác nhau:
Sóng không chỉ “dữ dội – dịu êm”; “ồn ào – lặng lẽ” mà sóng còn hiện diện “dưới lòng sâu” (sóng ngầm – chiều sâu) , “trên mặt nước” (sóng nổi – chiều rộng).
Có con sóng dữ dội tung bọt trắng xóa trên mặt biển ngày đêm gào thét cùng đại dương nhưng cũng có con sóng âm thầm đi ngầm dưới lòng sâu, không ai thấy nó, khó ai cảm nhận được về nó, chỉ riêng nó mới hiểu mình đang cồn cào. Cả hai kết hợp với nhau làm nên sự đa dạng của sóng biển.
Đó cũng là nỗi nhớ của sóng, của em vừa có chiều sâu vừa có chiều rộng. Sóng là em, em là sóng. Cũng như sóng kia, tâm hồn em cũng vô vàn những phức tạp khó hiểu. Xuân Quỳnh vô cùng tinh tế khi mượn một hình tượng rất động để ẩn dụ cho nỗi niềm của người phụ nữ khi yêu.
Hai câu sau diễn tả nỗi nhớ của sóng, dù sóng trên mặt nước hay sóng dưới lòng sâu thì cả hai đều nhớ bờ, đều hướng vào bờ:
Thì ra là “con sóng nhớ bờ”. Bờ là đích đến cuối cùng của sóng. Vì nhớ bờ mà nó bất chấp cả không gian rộng lớn vô biên, bất chấp cả thời gian “ngày đêm” để vươn tới bờ.
Sóng cồn cào nhớ nhung và khao khát gặp bờ đến độ “không ngủ được”. Nỗi nhớ từ đó cũng trùm lên mọi không gian “dưới lòng sâu – trên mặt nước”; trùm lên mọi thời gian “ngày đêm”.
Dường như bốn câu thơ không thể chuyên chở hết được nỗi nhớ đang dâng trào nên Xuân Quỳnh đã thêm hai câu thơ nữa vào khổ thứ năm để hoàn thiện giai điệu ấy của nỗi nhớ. Ấy là lúc mà hình tượng “em” hiện ra với nỗi lòng nồng nàn, băn khoăn, bồn chồn, thao thức:
Xuân Quỳnh xao xuyến nhận ra sự tương đồng kỳ diệu giữa một hiện tượng thiên nhiên vĩnh hằng của trời đất với những trạng thái cảm xúc của tình yêu luôn dào dạt trong lòng mình.
Nếu sóng nhớ bờ thì em nhớ anh – đó là quy luật của tình yêu muôn thuở. Nỗi nhớ không chỉ có mặt trong thời gian được ý thức (khi chưa ngủ ) mà còn gắn với tiềm thức – thời gian trong mơ (ngủ vẫn nhớ nhung).
Như vậy có thể nói đây là một nỗi nhớ thường trực trong trái tim của người phụ nữ khi yêu. Hình tượng thơ cho thấy những khát khao mãnh liệt của người phụ nữ: sóng khao khát được có bờ – em khao khát được có anh.
Xuân Quỳnh hay mượn ngôn ngữ của cơ thể để diễn tả nỗi nhớ: nỗi nhớ dâng lên mắt, nỗi nhớ ngập cả tâm hồn, thậm chí là nỗi nhớ đầy ắp cả đôi tay:
Ở khổ thơ thứ năm này, Xuân Quỳnh dùng chữ “Lòng” thật chính xác để diễn tả tình cảm của người phụ nữ với tình yêu. “Lòng” là chốn sâu kín nhất của tâm hồn con người, nhất lại là tâm hồn người phụ nữ.
Lòng là kết tinh của tình cảm được chưng cất trong một thời gian dài qua biết bao thử thách. Vì vậy mà tấm lòng ấy không chút hời hợt mà đã là gan, là ruột của người phụ nữ rồi.
Cho nên khi nói “Lòng em nhớ đến anh” dường như Xuân Quỳnh đã dốc hết cả nỗi lòng mình để nghiêng hết về phương anh. Cô gái trong Xuân Quỳnh là thế, cô gái trong ca dao cũng thế, đó là tâm trạng chung cho người phụ nữ khi yêu.
Nếu nỗi nhớ là chất men say đánh thức tình yêu thì sự thuỷ chung lại là thước đo của tình yêu, của lòng người:
Khi yêu, người ta thấy sự xa cách và thời gian chẳng là gì cả. Bởi vì chỉ cần nghĩ về nhau, thì bóng dáng người yêu đã đầy ắp trong tâm hồn.
Đầu mỗi câu thơ, Xuân Quỳnh đã đóng vào đó những từ chỉ sự đối lập: “dẫu xuôi – dẫu ngược”. Cách nói “xuôi Bắc, ngược Nam” lại trái với quy luật thông thường. Phải nói là “xuôi Nam” “ngược Bắc” mới đúng.
Động từ xuôi – ngược vốn lại là những động từ chỉ sự vất vả, truân chuyên: “xuôi Nam ngược Bắc”, đi Nam về Bắc, xuôi ngược bôn ba… Lại thêm “dẫu xuôi, dẫu ngược” nữa thì lại càng nhân lên gấp bội phần những gian nan vất vả. Phải chăng đó là sự vất vả của con người trong cuộc hành trình nhọc nhằn tìm kiếm hạnh phúc.
Ý thơ còn gợi một quyết tâm lớn của người phụ nữ: cuộc đời dẫu có thế nào đi chăng nữa thì em vẫn mãi mãi yêu anh. Tình yêu có thể làm đảo lộn phương hướng Bắc, Nam nhưng phương hướng thế nào không quan trọng, quan trọng nhất vẫn là “phương anh” mà em luôn hướng về.
Xuân Quỳnh buộc chặt bao “sợi nhớ, sợi thương” nghiêng hết tình, dốc hết yêu thương về “phương anh”. Hướng về anh thì có thể thay đổi nhưng với lời khẳng định chắc nịch “một phương” thì nơi em hướng về là bất di bất dịch.
Anh đã thành “hệ quy chiếu” của đời em. Từ đó nhà thơ đã nói đến nỗi nhớ bất chấp vạn vật, khoảng cách, tình yêu là sự gặp gỡ giữa hai tâm hồn không có giới hạn. Chỉ cần nghĩ về anh, nhớ về anh thì anh đã ở trong trái tim em rồi.
Thành công của đoạn thơ là nhờ vào một số thủ pháp nghệ thuật: Ẩn dụ, nhân hóa, đối lập, lặp cấu trúc… kết hợp với thể thơ năm chữ đã làm nên những con sóng nhiều trạng thái tình cảm.
Cách xây dựng hai hình tượng song hành: sóng và em độc đáo. Sóng vừa là sóng biển vừa là sóng lòng của người phụ nữ đang yêu. Hình tượng sóng rất đa dạng: lúc dữ dội, ồn ào, lúc dịu êm lặng lẽ cũng như tâm hồn em vậy dịu dàng lắm và cũng nồng cháy, mãnh liệt lắm.
Ngoài bài Phân Tích Khổ 5 6 Bài Sóng, đọc nhiều hơn 🌹 Thơ Quang Dũng 🌹 dành cho bạn!
Phân Tích Khổ 5 6 Bài Sóng Dàn Ý chi tiết và đầy đủ nhất, là tài liệu hữu ích để ôn tập.
1. Mở bài:
Giới thiệu qua tác giả Xuân Quỳnh là một gương mặt tiêu biểu của phong trào thơ trẻ chống Mĩ.
Thơ Xuân Quỳnh là một hồn thơ rất đỗi trẻ trung, tươi mát, đầy nữ tính. Đặc điểm đặc sắc trong thơ tình yêu của Xuân Quỳnh là: Vừa khát khao một tình yêu lý tưởng, vừa hướng tới hạnh phúc thiết thực của đời thường.
Tất cả những điều ấy được thể hiện trong một hồn thơ giản dị, tự nhiên và hồn nhiên. Có thể nói, cùng với “Thuyền và biển”, “Thơ tình cuối mùa thu”, bài thơ “Sóng” đã kết tinh được tất cả những gì là sở trường nhất của hồn thơ Xuân Quỳnh.
2. Thân bài
Hình tượng trung tâm và nổi trội trong bài thơ là hình tượng “Sóng”, bao trùm cả bài thơ là hình tượng: Sóng.
Sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ trẻ cũng như mọi sáng tạo nghệ thuật trong bài thơ đều gắn liền với hình tượng sóng. Cả bài thơ là những con sóng tâm tình của một người phụ nữ được khơi dậy khi đứng trước biển cả.
“Sóng” là một trong những hình tượng ẩn dụ, nó là sự hóa thân của cái tôi trữ tình của Xuân Quỳnh. “Sóng” và “em”, vừa hòa hợp là một, lại vừa phân đôi để soi chiếu, cộng hưởng. Tâm hồn người phụ nữ đang yêu soi vào sóng để thấy rõ lòng mình, nhờ sóng để biểu hiện những trạng thái của lòng mình.
Hình tượng sóng đã gợi ra trong cả bài thơ bằng âm điệu: Bài thơ có một âm hưởng dào dạt, nhịp nhàng, lúc sôi nổi trào dâng, lúc thì thầm sâu lắng, gợi âm hưởng của những đợt sóng miên man, vô tận.
Âm hưởng ấy được tạo dựng nên bởi thể thơ năm chữ, với những câu thơ liền mạch, từng không ngắt nhịp, các khổ thơ được gắn kết với nhau bằng cách nối vần (“Khi nào ta yêu nhau”… “Con sóng dưới lòng sâu”).
Khổ 5: Tình yêu luôn đi liền với nỗi nhớ. Tâm hồn đang yêu ở đây luôn soi vào sóng để diễn tả cái sâu sắc, bao la của nỗi nhớ trong lòng mình, nó choán đầy cả tầng sâu và bề rộng, nó chiếm lĩnh trọn cả thời gian, cả ngày lẫn đêm:
3. Kết bài
Khẳng định hình tượng sóng đã làm cho bài thơ thành công.
Tình yêu luôn luôn quan trọng với cuộc sống của mỗi con người, mỗi chúng ta ai cũng có quyền yêu và được yêu. Và tình yêu của tuổi trẻ là tình yêu mãnh liệt và cảm xúc trong sáng nhất.
Mời bạn khám phá thêm nội dung đặc sắc trong tuyển tập 💕 Phân Tích Bài Thơ Bếp Lửa 💕 hay nhất.
Tham khảo Dàn Ý Phân Tích Khổ 5 6 Bài Sóng ngắn gọn và cũng rất đầy đủ những kiến thức cần có.
1. Mở bài
Sóng của Xuân Quỳnh là bài thơ hay về đề tài tình yêu đôi lứa, nỗi nhớ da diết và chung thủy một lòng trong tình yêu thể hiện rất đậm nét trong khổ 5 6 của bài thơ. Khổ 5 6 cũng là đoạn hay và đặc sắc nhất trong bài thơ Sóng.
2. Thân bài
a. Nỗi nhớ nhung da diết trong tình yêu
– Trong khổ 5 tập trung vào nỗi nhớ trong tình yêu của chính tác giả. Sóng dù “dưới lòng sâu” hay con sóng “trên mặt nước” đều có chung một nỗi nhớ đó là “nhớ bờ”.
– Sóng hiện thân con gái khi yêu vô cùng mãnh liệt, nhớ nhung người yêu tựa như những con sóng liên tiếp đang xô vào bờ.
– Người con gái phải yêu thương, nhớ nhung nhiều lắm mới thể hiện cảm xúc “Ôi con sóng nhớ bờ”.
– Nỗi nhớ đó thường trực cả ngày lẫn đêm, xâm chiếm tâm trí người con gái đến cả khi chìm vào giấc mơ.
b. Sự thủy chung trong tình yêu
– Con sóng dù có xuôi về phương Bắc hay phương Nam cách xa, trắc trở về địa lý nhưng có điểm chung đều hướng vào bờ.
– Hình ảnh sóng vỗ vào bờ tựa như người con gái vượt qua nhiều khó khăn, trắc trở để hướng đến tình yêu, một lòng thủy chung sắc son.
– Thủy chung là đức tính quý báu của người con gái Việt Nam và nhà thơ Xuân Quỳnh nguyện một lòng chung thủy suốt đời.
– Chính sự thủy chung sẽ giúp người con gái vượt qua nhiều khó khăn, thử thách để đến với tình yêu đích thức.
3. Kết bài
Cảm nhận của bản thân về khổ thơ 5 và 6 của bài Sóng.
❤️️ Không chỉ có Phân Tích Khổ 5 6 Bài Sóng, gợi ý thêm cho bạn nhiều nội dung đặc sắc và hữu ích khác tại chúng tôi ❤️️
Cập nhật thông tin chi tiết về Văn Mẫu Lớp 12: Phân Tích Khổ 5 Bài Thơ Việt Bắc Của Tố Hữu (2 Dàn Ý + 12 Mẫu) Phân Tích Đoạn 5 Việt Bắc trên website Jhab.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!