Xu Hướng 9/2023 # Tình Yêu – Wikipedia Tiếng Việt # Top 12 Xem Nhiều | Jhab.edu.vn

Xu Hướng 9/2023 # Tình Yêu – Wikipedia Tiếng Việt # Top 12 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Tình Yêu – Wikipedia Tiếng Việt được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Jhab.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Romeo và Juliet, được miêu tả khi họ ở trên ban công trong Hồi III, 1867 của Ford Madox Brown, được miêu tả khi họ ở trên ban công trong Hồi III, 1867 của Ford Madox Brown

, được miêu tả khi họ ở trên ban công trong Hồi III, 1867 của Ford Madox Brown, được miêu tả khi họ ở trên ban công trong Hồi III, 1867 của Ford Madox Brown

Tình yêu, hay ái tình, là một loạt các cảm xúc, trạng thái tâm lý và thái độ khác nhau dao động từ tình cảm cá nhân (“Tôi yêu mẹ tôi”) đến niềm vui sướng (“Tôi yêu món ăn”). Tình yêu thường là một cảm xúc thu hút mạnh mẽ và nhu cầu muốn được ràng buộc gắn bó.[1]

Tình yêu cũng được coi là một đức tính đại diện cho lòng tốt, lòng trắc ẩn và tình cảm của con người, như “mối quan tâm trung thành và nhân từ không ích kỷ vì lợi ích của người khác”.[2] Tình yêu cũng có thể mô tả các hành động từ bi và tình cảm đối với người khác, bản thân hoặc động vật.[3]

Bạn đang đọc: Tình yêu – Wikipedia tiếng Việt

Người Hy Lạp cổ đại xác định bốn hình thức của tình yêu: Quan hệ gần gũi của họ hàng hay người thân (trong tiếng Hy Lạp, storge), tình bạn (philia), ham muốn tình dục và/hoặc cảm xúc lãng mạn (eros), và xúc cảm dành cho các giá trị tôn giáo (agape).[6][7] Các tác giả hiện đại đã phân biệt các biến thể chi tiết hơn nữa của tình yêu lãng mạn.[8] Các nền văn hóa không phải của phương Tây cũng có các biến thể khác nhau cho các trạng thái cảm xúc này.[9] Sự đa dạng của việc sử dụng và ý nghĩa kết hợp với sự phức tạp của những cảm giác của tình yêu làm cho việc thống nhất xác định thế nào là tình yêu trở nên cực kỳ khó khăn khi so với các trạng thái cảm xúc khác.

Định nghĩa

Mặc dù bản chất của tình yêu là một đề tài tranh luận thường xuyên, các khía cạnh khác nhau của từ này có thể được làm rõ bằng cách xác định những gì không phải là tình yêu (từ trái nghĩa của nó). Tình yêu như một biểu hiện chung của tâm lý tích cực (một hình thức mạnh mẽ của ưa thích) thường trái ngược với ghét bỏ (hoặc thờ ơ theo nghĩa trung tính); nếu tình yêu như một hình thức tình cảm thân mật bao gồm nhiều cảm xúc lãng mạn và ít cảm xúc tình dục, khi đó thường có nghĩa trái ngược với ham muốn; còn nếu tình yêu như một mối quan hệ giữa các cá nhân với cảm xúc lãng mạn, khi đó tình yêu đôi khi mang nghĩa trái ngược với tình bạn, mặc dù tình yêu thường được áp dụng cho các tình bạn gần gũi. (Nghĩa mơ hồ hơn nữa áp dụng cho các từ như “bạn gái”, “bạn trai”, hay thành ngữ “chỉ là bạn tốt”).

Tính chất phức tạp và trừu tượng của tình yêu thường tạo ra các thành ngữ về tình yêu, ở đó tình yêu vượt trên mọi cảm xúc khác. Dẫn chứng là một số câu tục ngữ thông thường về tình yêu, từ “Tình yêu sẽ chiến thắng tất cả” của Virgil đến “Tất cả thứ bạn cần là tình yêu” của Beatles. Thánh Thomas Aquinas, sau Aristotle, định nghĩa tình yêu là “tạo ra điều tốt lành cho người khác.”[12] Bertrand Russell mô tả tình yêu như một điều kiện “có giá trị tuyệt đối”, trái ngược với giá trị tương đối.[cần dẫn nguồn] Nhà triết học Gottfried Leibniz nói tình yêu là “vui mừng vì hạnh phúc của người khác.”[13] Nhà sinh học Jeremy Griffith định nghĩa tình yêu là “lòng vị tha vô điều kiện”.[14]

Tình yêu phi cá thể

Mọi người hoàn toàn có thể nói là yêu một đối tượng người dùng, nguyên tắc hoặc tiềm năng mà họ cam kết thâm thúy và có giá trị rất lớn. Ví dụ, sự tiếp cận từ bi và ” tình yêu ” của người làm công tác làm việc tình nguyện về nguyên do của họ đôi lúc hoàn toàn có thể được sinh ra không phải do tình yêu giữa những cá thể mà là tình yêu phi cá thể, lòng vị tha và niềm tin chính trị hoặc niềm tin can đảm và mạnh mẽ. [ 15 ] Mọi người cũng hoàn toàn có thể ” yêu ” những vật thể, động vật hoang dã hoặc những hoạt động giải trí nếu họ góp vốn đầu tư vào việc kết nối hoặc giống hệt với những thứ đó. Nếu đam mê tình dục cũng có tương quan, thì cảm xúc này được gọi là xô lệch tình dục – paraphilia. [ 16 ] Một nguyên tắc phổ cập mà mọi người nói rằng thứ họ yêu là chính đời sống .

Tình yêu cá thể giữa con người với nhau

Pair of Lovers. 1480–1485. 1480 – 1485

Cơ sở sinh học

Vì các giai đoạn ham muốn và thu hút đều được coi là tạm thời, nên giai đoạn thứ ba là cần thiết cho các mối quan hệ lâu dài. Gắn bó là sự gắn kết thúc đẩy các mối quan hệ kéo dài trong nhiều năm và thậm chí nhiều thập kỷ. Sự gắn bó thường dựa trên các cam kết như hôn nhân và con cái, hoặc dựa trên tình bạn lẫn nhau dựa trên những thứ như lợi ích chung. Nó đã được liên kết với mức độ cao hơn của hóa chất oxytocin và vasopressin ở mức độ lớn hơn so với các mối quan hệ ngắn hạn tạo ra.[19] Enzo Emanuele và đồng nghiệp đã báo cáo phân tử protein được gọi là yếu tố tăng trưởng thần kinh (NGF) có mức độ cao khi người ta mới yêu, nhưng chúng trở lại mức trước đó sau một năm.[20]

Cơ sở tâm ý

Tâm lý học miêu tả tình yêu như một hiện tượng nhận thức và xã hội. Nhà tâm lý học Robert Sternberg đã đưa ra một lý thuyết tam giác tình yêu và cho rằng tình yêu có ba thành phần khác nhau: sự thân mật, sự cam kết và niềm đam mê. Sự thân mật là một hình thức trong đó hai người chia sẻ những tâm sự và nhiều chi tiết khác nhau về cuộc sống cá nhân của họ, và thường được thể hiện trong tình bạn và những chuyện tình lãng mạn. Cam kết, mặt khác, là kỳ vọng rằng mối quan hệ là vĩnh viễn. Hình thức cuối cùng của tình yêu là sự hấp dẫn và đam mê tình dục. Tình yêu đam mê được thể hiện trong sự mê đắm cũng như tình yêu lãng mạn. Tất cả các hình thức của tình yêu được xem là sự kết hợp khác nhau của ba thành phần này. Không yêu không bao gồm bất kỳ thành phần nào trong số này. Ưa thích chỉ bao gồm sự thân mật. Say đắm chỉ bao gồm đam mê. Tình yêu trống rỗng chỉ bao gồm sự cam kết. Tình yêu lãng mạn bao gồm cả sự thân mật và đam mê. Tình yêu đồng hành bao gồm sự thân mật và cam kết. Tình yêu say đắm bao gồm đam mê và cam kết. Cuối cùng, tình yêu hoàn hảo bao gồm cả ba thành phần.[21] Nhà tâm lý học người Mỹ Zick Rubin đã tìm cách xác định tình yêu bằng tâm lý học vào những năm 1970. Tác phẩm của ông nói rằng ba yếu tố cấu thành tình yêu: là sự gắn bó, quan tâm và sự thân mật.[22][23]

Sau những phát triển trong các lý thuyết điện như định luật Coulomb, cho thấy các điện tích dương và âm thu hút, các lý thuyết tương tự trong cuộc sống của con người đã được phát triển, như “ngược nhau thu hút nhau”. Trong thế kỷ qua, nghiên cứu về bản chất của việc giao phối của con người nói chung đã cho thấy điều này không đúng khi nói về tính cách: con người có xu hướng thích những người giống mình. Tuy nhiên, trong một số lĩnh vực bất thường và cụ thể, chẳng hạn như hệ thống miễn dịch, dường như con người thích những người khác không giống mình (ví dụ, với hệ thống miễn dịch trực giao), vì điều này sẽ dẫn đến một đứa trẻ có cả hai thế giới tốt nhất.[24] Trong những năm gần đây, các lý thuyết liên kết khác nhau của con người đã được phát triển, được mô tả dưới dạng các ràng buộc, liên kết và ái lực. Một số tác giả phương Tây phân chia thành hai thành phần chính, đó là lòng vị tha và tự yêu bản thân. Quan điểm này được thể hiện trong các tác phẩm của Scott Peck, người có công việc trong lĩnh vực tâm lý học ứng dụng đã khám phá các định nghĩa về tình yêu và cái ác. Peck khẳng định rằng tình yêu là sự kết hợp giữa “mối quan tâm đối với sự phát triển tâm linh của người khác” và sự tự yêu bản thân đơn giản.[25] Kết hợp lại, tình yêu là một hoạt động, không chỉ đơn giản là một cảm giác.

Nhà tâm lý học Erich Fromm đã nêu trong cuốn sách Nghệ thuật yêu thương rằng tình yêu không chỉ đơn thuần là một cảm giác mà còn là hành động, và trên thực tế, “cảm giác” của tình yêu là bề ngoài so với cam kết của một người về tình yêu thông qua một loạt các hành động yêu thương qua thời gian.[15] Theo nghĩa này, Fromm cho rằng tình yêu cuối cùng không phải là một cảm giác, mà là một cam kết và tuân thủ, hành động yêu thương đối với người khác, với chính mình, hoặc với nhiều người khác, trong một thời gian bền vững.[15] Fromm cũng mô tả tình yêu là một lựa chọn có ý thức rằng trong giai đoạn đầu của nó có thể bắt nguồn từ một cảm giác không tự nguyện, nhưng sau đó không còn phụ thuộc vào những cảm xúc đó, mà chỉ phụ thuộc vào cam kết có ý thức.[15]

Cơ sở tiến hóa So sánh những quy mô khoa học

Các mô hình sinh học của tình yêu có xu hướng xem nó như một động lực của động vật có vú, tương tự như đói hoặc khát.[17] Tâm lý học xem tình yêu là một hiện tượng văn hóa xã hội nhiều hơn. Chắc chắn tình yêu bị ảnh hưởng bởi hormone (như oxytocin), neurotrophins (như NGF) và pheromone, và cách mọi người suy nghĩ và hành xử trong tình yêu bị ảnh hưởng bởi quan niệm của họ về tình yêu. Quan điểm thông thường trong sinh học là có hai động lực chính trong tình yêu: sự hấp dẫn và sự gắn bó tình dục. Sự gắn bó giữa người lớn được cho là hoạt động theo cùng một nguyên tắc khiến trẻ sơ sinh trở nên gắn bó với mẹ. Quan điểm tâm lý truyền thống coi tình yêu là sự kết hợp giữa tình yêu đồng hành và tình yêu đam mê. Tình yêu đam mê là khao khát mãnh liệt, và thường đi kèm với hưng phấn sinh lý (khó thở, nhịp tim nhanh); tình yêu đồng hành là tình cảm và một cảm giác thân mật không đi kèm với hưng phấn sinh lý.

Quan điểm văn hóa truyền thống Hy Lạp cổ đại

Bản sao La Mã của một tác phẩm điêu khắc Hy Lạp của Lysippus miêu tả Eros, nhân cách hóa Hy Lạp của tình yêu lãng mạn

Tiếng Hy Lạp phân biệt một số giác quan khác nhau trong đó từ “tình yêu” được sử dụng. Hy Lạp cổ đại đã xác định bốn hình thức của tình yêu: quan hệ họ hàng hay quen thuộc (trong tiếng Hy Lạp, storge), tình bạn và/hoặc mong muốn thuần khiết (philia), tình dục và/hoặc ham muốn lãng mạn (eros), và tự quên mình hoặc tình yêu của Thiên Chúa (agape).[7][28] Các tác giả hiện đại đã phân biệt nhiều loại tình yêu lãng mạn.[29] Tuy nhiên, với tiếng Hy Lạp (cũng như nhiều ngôn ngữ khác), về mặt lịch sử, việc phân tách ý nghĩa của những từ này một cách hoàn toàn là rất khó khăn. Đồng thời, văn bản Hy Lạp cổ đại của Kinh Thánh có ví dụ về động từ agapo có cùng ý nghĩa với phileo.

Agape (ἀγάπη agápē) có nghĩa là tình yêu trong tiếng Hy Lạp hiện đại. Thuật ngữ s’agapo có nghĩa là tôi yêu bạn trong tiếng Hy Lạp. Từ agapo là động từ tôi yêu. Nó thường đề cập đến một loại tình yêu “thuần khiết”, hơn là sự hấp dẫn thể xác của eros. Tuy nhiên, có một số ví dụ về agape được sử dụng có nghĩa tương tự như eros. Nó cũng đã được dịch là “tình yêu của tâm hồn.”[30]

Eros (ἔρως érōs) (từ vị thần Hy Lạp Eros) là tình yêu nồng nàn, với ham muốn nhục dục và khao khát. Từ erota trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là trong tình yêu. Plato đã tinh chỉnh lại định nghĩa của riêng mình. Mặc dù eros ban đầu được cảm nhận cho một người, nhưng với sự suy ngẫm, nó trở thành sự đánh giá cao vẻ đẹp bên trong người đó, hoặc thậm chí trở thành sự đánh giá cao về chính cái đẹp. Eros giúp linh hồn nhớ lại kiến thức về cái đẹp và góp phần hiểu biết về sự thật tâm linh. Những người yêu thích và triết gia đều được truyền cảm hứng để tìm kiếm sự thật bằng eros. Một số bản dịch liệt kê nó là “tình yêu của cơ thể”.[30]

Philia (φιλία philía), một tình yêu đạo đức không khoan nhượng, là một khái niệm được Aristotle đề cập và phát triển trong cuốn sách Nicomachean Ethics VIII của ông.[31] Nó bao gồm sự trung thành với bạn bè, gia đình và cộng đồng, và đòi hỏi phải có đức hạnh, bình đẳng và sự quen thuộc. Philia được thúc đẩy bởi lý do thực tế; một hoặc cả hai bên được hưởng lợi từ mối quan hệ. Nó cũng có thể có nghĩa là “tình yêu của tâm trí.”

Storge στοργή repositorygē) là tình cảm tự nhiên, giống như cảm xúc của cha mẹ dành cho con cái.

Xenia (ξεί xen xenía), lòng hiếu khách, là một thực hành cực kỳ quan trọng ở Hy Lạp cổ đại. Đó là một tình bạn gần như được nghi thức hóa được hình thành giữa một người chủ nhà và khách, người trước đây có thể là người lạ. Chủ nhà cho ăn và cung cấp chỗ ngủ cho khách, với khách dự kiến sẽ chỉ đáp lại với lòng biết ơn. Tầm quan trọng của điều này có thể được thấy trong các tác phẩm của thần thoại Hy Lạp – đặc biệt là trong các tác phẩm của Homer, Iliad và Odyssey.

La Mã cổ đại ( tiếng Latin )

Latin đôi khi sử dụng từ amare trong khi tiếng Anh chỉ cần nói like (thích). Tuy nhiên, khái niệm này thường được thể hiện bằng tiếng Latinh nhiều hơn bằng thuật ngữ placere hoặc delectāre, được sử dụng nhiều hơn thông thường, sau này được sử dụng thường xuyên trong thơ tình của Catullus. Diligere thường có khái niệm “tình cảm”, “quý trọng” và hiếm khi được sử dụng cho tình yêu lãng mạn. Từ này sẽ thích hợp để mô tả tình bạn của hai người đàn ông. Tuy nhiên, danh từ tương ứng diligentia có ý nghĩa của “sự siêng năng” hoặc “cẩn thận” và có ít sự trùng lặp về ngữ nghĩa với động từ. Observare là một từ đồng nghĩa với diligentia; mặc dù nhận thức bằng tiếng Anh, động từ này và danh từ tương ứng của nó, obsantia, thường biểu thị “lòng tự trọng” hoặc “tình cảm”. Caritas được sử dụng trong các bản dịch tiếng Latinh của Kinh thánh Kitô giáo có nghĩa là “tình yêu mang tính từ thiện”; ý nghĩa này, tuy nhiên, không được tìm thấy trong văn học La Mã ngoại giáo cổ điển. Vì nó phát sinh từ một sự kết hợp với một từ Hy Lạp, nó không có động từ tương ứng.

Trung Quốc và những nền văn hóa truyền thống Sinic khác

Hai nền tảng triết học của tình yêu tồn tại trong chữ Hán phồn thể của Trung Quốc, một từ Nho giáo trong đó nhấn mạnh đến hành động và nghĩa vụ trong khi cái còn lại đến từ Mặc gia hướng tới một tình yêu phổ quát. Một khái niệm cốt lõi của Nho giáo là 伇 (ren, lòng nhân từ), tập trung vào nghĩa vụ, hành động và thái độ trong một mối quan hệ hơn là chính tình yêu. Trong Nho giáo, người ta thể hiện lòng nhân từ bằng cách thực hiện các hành động như lòng hiếu thảo của con cái, lòng tốt của cha mẹ, sự trung thành với nhà vua, v.v…

Khái niệm về 愛 (piyin: ài, âm Hán Việt: ái), được nhà triết học Trung Quốc Mặc Tử phát triển vào thế kỷ thứ 4 TCN nhằm phản ứng với tình yêu nhân từ của Nho giáo. Mặc Tử đã cố gắng để thay thế những gì ông coi là sự quá gắn bó của người Trung Quốc với cấu trúc gia đình và gia tộc với khái niệm “tình yêu phổ quát” (兼愛, jiān’ài, âm Hán Việt: kiêm ái). Về vấn đề này, Mặc Tử đã lập luận trực tiếp chống lại Nho giáo, những người tin rằng việc mọi người quan tâm đến những người khác nhau ở các mức độ khác nhau là tự nhiên và đúng đắn. Ngược lại, Mặc Tử tin rằng mọi người về nguyên tắc nên quan tâm đến tất cả mọi người như nhau. Mặc Tử nhấn mạnh rằng thay vì chấp nhận những thái độ khác nhau đối với những người khác nhau, tình yêu nên là vô điều kiện và được trao cho mọi người mà không quan tâm đến việc đáp lại; không chỉ với bạn bè, gia đình và các mối quan hệ Nho giáo khác. Sau này trong Phật giáo Trung Quốc, thuật ngữ Ái (愛) đã được áp dụng để đề cập đến một tình yêu nồng nhiệt, chăm sóc và được coi là một mong muốn cơ bản. Trong Phật giáo, ái được xem là có khả năng hoặc là vị kỷ hoặc là vị tha, và vị tha là yếu tố then chốt để giác ngộ.

Trong tiếng Quan Thoại, 愛 (ài, âm Hán Việt: ái) thường được sử dụng như là tương đương với khái niệm tình yêu phương Tây. 愛 (ài) được sử dụng làm cả động từ (vd 我愛你, Wǒ ài nǐ, hoặc “Anh yêu em”) và một danh từ (ví dụ như 愛情 àiqíng, hay “ái tình”). Tuy nhiên, do ảnh hưởng của Nho giáo 伇 (rén, nhân), cụm từ 我愛你 (Wǒ ài nǐ, anh yêu em) mang trong nó ý thức trách nhiệm, cam kết và lòng trung thành rất rõ nét. Thay vì thường xuyên nói “Anh yêu em” như trong một số xã hội phương Tây, người Trung Quốc thường thể hiện cảm xúc yêu thương theo cách giản dị hơn. Do đó, “Anh thích em” (我喜欢你, Wǒ xǐhuan nǐ) là một cách phổ biến hơn để thể hiện tình cảm trong tiếng Trung; nó vui tươi hơn và ít nghiêm trọng hơn.[33] Điều này cũng đúng trong tiếng Nhật (suki da, 好きだ).

Nhật Bản

Ngôn ngữ Nhật Bản sử dụng ba từ để truyền đạt tiếng Anh tương đương với “tình yêu”. Bởi vì “tình yêu” bao trùm một loạt các cảm xúc và hiện tượng hành vi, có nhiều sắc thái phân biệt ba thuật ngữ.[34][35] Thuật ngữ ai (愛, ai?), thường được liên kết với tình mẫu tử hoặc tình yêu vị tha, ban đầu được gọi là vẻ đẹp và thường được sử dụng trong bối cảnh tôn giáo. Sau cuộc Duy tân Minh Trị năm 1868, thuật ngữ này đã gắn liền với “tình yêu” để dịch văn học phương Tây. Trước ảnh hưởng của phương Tây, từ koi (恋, koi?) thường thể hiện tình yêu lãng mạn, và thường là đối tượng của bộ sưu tập thơ Nhật Bản phổ biến Man’yōshū. Koi mô tả sự mong muốn một người khác giới và thường được hiểu là có tính ích kỷ. Nguồn gốc của thuật ngữ này xuất phát từ khái niệm cô đơn là kết quả của sự xa cách với người mình yêu thương. Mặc dù việc sử dụng từ koi hiện đại tập trung vào tình yêu và sự mê đắm tình dục, Manyō đã sử dụng thuật ngữ này để đề cập đến một loạt các tình huống, bao gồm sự dịu dàng, lòng nhân từ và ham muốn vật chất. Thuật ngữ thứ ba, ren’ai (恋愛, ren’ai?), là một cấu trúc hiện đại hơn, kết hợp các ký tự kanji cho cả ai và koi, mặc dù cách sử dụng của nó gần giống với koi dưới dạng tình yêu lãng mạn.

Ấn Độ

Tranh vẽ thần Hindu Krishna và người tình Radha đang quan hệ tình dục .Trong văn học đương đại, kama thường đề cập đến ham muốn tình dục. [ 36 ] [ 37 ] Tuy nhiên, thuật ngữ này cũng đề cập đến bất kể sự hưởng thụ cảm giác, sự mê hoặc cảm hứng và niềm vui nghệ thuật và thẩm mỹ như từ thẩm mỹ và nghệ thuật, khiêu vũ, âm nhạc, hội họa, điêu khắc và vạn vật thiên nhiên. [ 38 ] [ 39 ]Khái niệm kama được tìm thấy trong 1 số ít câu thơ được biết đến sớm nhất trong kinh Vệ đà. Ví dụ, quyển 10 của Rig Veda diễn đạt việc tạo ra ngoài hành tinh từ hư vô bởi sức nóng lớn. Trong bài thánh ca 129, có ghi :

Sages who searched with their heart’s thought discovered the existent’s kinship in the non-existent.

[41]Rig Veda, ~ 15th century BC

Ba Tư

You are not worthy to be called by the name of “man”.

Sa’di, Gulistan   

Rumi, Hafiz và Sa’di là những biểu tượng của niềm đam mê và tình yêu mà văn hóa và ngôn ngữ Ba Tư thể hiện. Từ trong tiếng Ba Tư cho tình yêu là Ishq, bắt nguồn từ tiếng Ả Rập,[42] tuy nhiên, phần lớn coi từ này là quá khắt khe một thuật ngữ cho tình yêu giữa các cá nhân và thường được thay thế bằng từ “doost dashtan” (“thích”). Trong văn hóa Ba Tư, mọi thứ đều được tình yêu bao bọc và tất cả là vì tình yêu, bắt đầu từ yêu bạn bè và gia đình, chồng và vợ, và cuối cùng đạt đến tình yêu thiêng liêng là mục tiêu cuối cùng của cuộc sống.

Quan điểm tôn giáo Tôn giáo Abraham

Tình yêu, đánh vần của chữ ahava. Tác giả Robert Indiana, 1977.Tượng điêu khắc, đánh vần của chữ. Tác giả Robert Indiana, 1977 .

Do Thái giáo

Trong tiếng Hebrew, אהבה (ahava) là thuật ngữ được sử dụng phổ biến nhất cho cả tình yêu giữa các cá nhân và tình yêu giữa Chúa Trời và các sáng tạo của Chúa Trời. Chesed, thường được dịch là lòng tốt yêu thương, được sử dụng để mô tả nhiều hình thức tình yêu giữa con người.

Điều răn phải yêu thương người khác được đưa ra trong Torah, trong đó công bố : ” Hãy yêu thương kẻ lân cận ngươi như mình ” ( Leviticus 19 : 18 ). Điều răn của Torah là yêu Chúa ” bằng cả trái tim, với tổng thể tâm hồn và với tổng thể sức lực lao động của bạn ” ( Phục truyền Luật lệ ký 6 : 5 ) được Mishnah ( một văn bản TT của luật truyền miệng của người Do Thái ) đề cập đến những việc tốt, sẵn lòng quyết tử mạng sống của một người thay vì phạm phải những tội lỗi nghiêm trọng nhất định, chuẩn bị sẵn sàng quyết tử tổng thể gia tài của mình và biết ơn Chúa mặc kệ nghịch cảnh ( Berachoth 9 : 5 ). Văn học Rabbinic có thấy cách nhìn khác với cách tình yêu này hoàn toàn có thể được tăng trưởng, ví dụ, bằng cách suy ngẫm những việc thiêng liêng hoặc tận mắt chứng kiến những điều kỳ diệu của tự nhiên .

Đối với tình yêu giữa các đối tác hôn nhân, đây được coi là một thành phần thiết yếu cho cuộc sống: “Xem cuộc sống với người vợ mà bạn yêu” (Sách Giảng viên 9: 9). Giáo sĩ Do Thái David Wolpe viết rằng “… tình yêu không chỉ là cảm xúc của người đang yêu… Đó là khi một người tin vào một người khác và thể hiện điều đó”. Ông nói thêm rằng “… tình yêu… là một cảm giác thể hiện bằng hành động. Những gì chúng ta thực sự cảm thấy được phản ánh trong những gì chúng ta làm.”[43] Cuốn sách Kinh thánh Sách Diễm ca được coi là một phép ẩn dụ lãng mạn về tình yêu giữa Thiên Chúa và dân tộc của mình, nhưng theo cách đọc đơn giản, nó giống như một bản tình ca. Rabbi Eliyahu Eliezer Dessler của thế kỷ 20 thường được trích dẫn là xác định tình yêu theo quan điểm của người Do Thái là “cho đi mà không mong nhận lại” (từ Michtav me-Eliyahu, Vol. 1).

Kitô giáo

Theo hiểu biết của Kitô giáo, tình yêu đến từ Thiên Chúa. Tình yêu của đàn ông và phụ nữ, eros trong tiếng Hy Lạp và tình yêu không vị kỷ hướng đến người khác (agape), thường được đối lập tương ứng là tình yêu “giảm dần” và “tăng dần”, nhưng cuối cùng lại giống nhau.[44]

Có một số ít từ Hy Lạp cho ” tình yêu ” thường được nhắc đến trong giới Kitô giáo .

Agape: Trong Tân Ước, agapē là từ thiện, vị tha, vị tha và vô điều kiện. Đó là tình yêu của cha mẹ, được coi là tạo ra lòng tốt trong thế giới; đó là cách Thiên Chúa được nhìn nhận để yêu thương nhân loại, và nó được coi là loại tình yêu mà các Kitô hữu khao khát dành cho nhau.[30]

Phileo: Cũng được sử dụng trong Tân Ước, phileo là một phản ứng của con người đối với một cái gì đó được tìm thấy là thú vị. Còn được gọi là “tình anh em”.

Hai từ còn lại cho tình yêu trong tiếng Hy Lạp, eros (tình yêu nhục dục) và storge (tình cảm của con cái đối với cha mẹ), không bao giờ được sử dụng trong Tân Ước.

Kitô hữu tin rằng yêu Chúa bằng cả trái tim, tâm trí và sức mạnh của mình và yêu người hàng xóm như yêu chính bản thân mình là hai điều quan trọng nhất trong cuộc sống (điều răn lớn nhất của Torah Do Thái, theo Jesus; Phúc âm Máccô chương 12, câu 28-34). Thánh Augustine tóm tắt điều này khi ông viết “Yêu Chúa, và làm như bạn phải làm”.

Tình yêu thiêng liêng và tục tĩu (1602-03) của Giovanni Baglione. Dự định là một cuộc tấn công vào kẻ thù đáng ghét của mình, nghệ sĩ [45]( 1602 – 03 ) của Giovanni Baglione. Dự định là một cuộc tiến công vào quân địch đáng ghét của mình, nghệ sĩ Caravaggio, nó cho thấy hình một cậu bé ( gợi ý về sự đồng tính luyến ái của Caravaggio ) ở một bên, một hung thần quỷ ác với mặt của Caravaggio, và giữa một thiên thần đại diện thay mặt cho tình yêu thuần khiết, không khiêu dâm .

Thánh Augustine nói rằng người ta phải có khả năng giải mã sự khác biệt giữa tình yêu và ham muốn. Đam mê sắc dục theo Saint Augustine, là một sự bội thực, nhưng để yêu và được yêu là điều ông đã tìm kiếm trong suốt cuộc đời mình. Augustinô thậm chí còn nói, tôi đã yêu chính tình yêu. Cuối cùng, ông đã yêu và được Chúa yêu lại. Thánh Augustine nói rằng người duy nhất có thể yêu bạn thực sự và trọn vẹn là Thiên Chúa, bởi vì tình yêu với con người chỉ tạo ra những sai lầm như “ghen tuông, nghi ngờ, sợ hãi, giận dữ và ganh đua”. Theo Saint Augustine, yêu Chúa là “đạt được sự bình an vốn là của bạn”. (Lời thú tội của Thánh Augustine)

Augustine coi điều răn hai chiều về tình yêu trong Matthew 22 là tâm điểm của đức tin Kitô giáo và sự giải thích của Kinh thánh. Sau khi xem xét học thuyết Kitô giáo, Augustinô xử lý vấn đề tình yêu về mặt sử dụng và hưởng thụ cho đến khi kết thúc quyển I của De Doctrina Christiana (1.22,21-1,40,44;).[46]

Các nhà thần học Kitô giáo xem Thiên Chúa là nguồn gốc của tình yêu, được nhân đôi trong con người và các mối quan hệ yêu thương của chính họ. Nhà thần học Kitô giáo có ảnh hưởng lớn C. S. Lewis đã viết một cuốn sách tên là Bốn yêu thương. Giáo hoàng Benedict XVI viết thư gửi các nhà thờ đầu tiên của mình với tiêu đề Thiên Chúa là tình yêu. Ông nói rằng một con người, được tạo ra theo hình ảnh của Thiên Chúa, vốn là tình yêu, có thể thực hành tình yêu; hiến mình cho Chúa và người khác (agape) và bằng cách nhận và trải nghiệm tình yêu của Chúa trong sự suy ngẫm (eros). Cuộc sống ngập tràn tình yêu này, theo ông, là cuộc sống của các vị thánh như Mẹ Teresa ở Calcutta và Trinh nữ Maria và là hướng đi mà các Kitô hữu thực hiện khi họ tin rằng Chúa yêu họ.[44]

Giáo hoàng Phanxicô đã dạy rằng ” Tình yêu đích thực là cả yêu thương và để cho chính mình được yêu thương … điều quan trọng trong tình yêu không phải là tình yêu của tất cả chúng ta, mà là cho phép mình được Thiên Chúa yêu thương “. [ 47 ] Và thế cho nên, trong nghiên cứu và phân tích của một nhà thần học Công giáo, so với Giáo hoàng Phanxicô, ” chìa khóa của tình yêu … không phải là hoạt động giải trí của tất cả chúng ta. Đó là hoạt động giải trí của nguồn lực lớn nhất và là nguồn gốc của tổng thể những quyền lực tối cao trong ngoài hành tinh : Chúa Trời “. [ 48 ]Trong Kitô giáo, định nghĩa thực tiễn về tình yêu được Thánh Thomas Aquinô tóm tắt, người đã định nghĩa tình yêu là ” sẽ làm điều tốt cho người khác “, hoặc mong ước người khác thành công xuất sắc. [ 12 ] Đây là một lời lý giải về nhu yếu của người Kitô hữu để yêu thương người khác, kể cả quân địch. Như Thomas Aquinas lý giải, tình yêu Kitô giáo được thôi thúc bởi nhu yếu nhìn thấy người khác thành công xuất sắc trong đời sống, trở thành người tốt .Về tình yêu dành cho quân địch, Giêsu được trích dẫn là đã nói trong Tin mừng Matthew chương năm :

“Bạn đã nghe rằng người ta nói, ‘Yêu hàng xóm của bạn và ghét kẻ thù của bạn’. Nhưng tôi nói với bạn, hãy yêu kẻ thù của bạn và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ bạn, rằng bạn có thể là con của Cha trên trời. Cha làm cho mặt trời của mình trỗi dậy trên cái ác và cái thiện, và gửi mưa cho những người công bình và những người bất chính. Nếu bạn yêu những người yêu bạn, bạn sẽ nhận được phần thưởng nào? Thậm chí còn có những người thu thuế làm điều đó. Và nếu bạn chỉ chào hỏi người của bạn, bạn đang làm gì cao hơn những người khác? Thậm chí người ngoại đạo cũng làm điều đó. Do đó, hãy trở nên hoàn hảo, vì Cha trên trời của bạn là hoàn hảo.” – Matthew 5: 43-48.

Nhắc nhở mọi người hãy yêu bằng sự tha thứ, Giêsu đã cứu một phụ nữ ngoại tình thoát khỏi việc bị ném đá. Luật Môi-se được phản ánh trong Sách luật Deuteronomy 22 : 22-24, cho thấy quốc tế của những kẻ giả nhân giả nghĩa cần tình yêu mang tính tha thứ : ” Nếu một người đàn ông bị phát hiện ngủ với một người phụ nữ có chồng, thì cả hai sẽ chết – người đàn ông ngủ với người phụ nữ và người phụ nữ, vì thế bạn sẽ loại cái xấu khỏi Israel. Nếu một phụ nữ trẻ còn trinh được hứa hôn với một người chồng và một người đàn ông ngủ với cô ấy, thì bạn sẽ mang cả hai ra ngoài cổng thành phố đó, và bạn sẽ ném đá họ đến chết, ném đá người phụ nữ trẻ vì cô không khóc trong thành phố, và ném đá người đàn ông vì anh ta hạ nhục vợ người hàng xóm ; vì thế bạn sẽ vô hiệu cái xấu ra khỏi chính bản thân bạn. ” [ 49 ]Tertullian đã viết về tình yêu dành cho quân địch : ” Lòng tốt cá thể, khác thường và hoàn hảo nhất của tất cả chúng ta gồm có việc yêu thương quân địch. Yêu bạn hữu là một thói quen phổ cập, yêu quân địch là một việc chỉ có những người theo Kitô giáo làm. ” [ 50 ]

Hồi giáo

Al-Wadūd

, có nghĩa là “Sự yêu thương”.Trong Hồi giáo, một trong 99 tên của Thiên Chúa là, có nghĩa là ” Sự yêu thương ” .

Tình yêu bao bọc quan điểm Hồi giáo về cuộc sống như tình anh em phổ quát áp dụng cho tất cả những ai nắm giữ đức tin. Trong số 99 tên của Thiên Chúa (Allah), có tên Al-Wadud, hay “Người yêu thương”, được tìm thấy trong Surah Qur’an 11:90 cũng như Surah Qur’an 85:14. Thiên Chúa cũng được nhắc đến ở đầu mỗi chương trong Qur’an là Ar-Rahman và Ar-Rahim, hay “Từ bi nhất” và “Thương xót nhất”, cho thấy rằng không ai yêu thương, nhân ái và nhân từ hơn Thiên Chúa. Qur’an (Coran) nói đến Thiên Chúa là “đầy lòng nhân ái”.

Qur’an khuyến khích các tín đồ Hồi giáo đối xử với tất cả mọi người, những người không bắt bớ họ, bằng birr hoặc “lòng tốt sâu sắc” như đã nêu trong Surah Qur’an 6:8-9. Birr cũng được Qur’an sử dụng để mô tả tình yêu và lòng tốt mà trẻ em phải thể hiện với cha mẹ.

Ishq, hay tình yêu thiêng liêng, là điểm nhấn của Sufi giáo trong truyền thống Hồi giáo. Các tín đồ Sufi giáo tin rằng tình yêu là sự phóng chiếu bản chất của Thiên Chúa lên vũ trụ. Thiên Chúa mong muốn nhận ra vẻ đẹp, và như thể người ta nhìn vào gương để thấy chính mình, Thiên Chúa “nhìn” chính mình trong sự năng động của tự nhiên. Vì tất cả mọi thứ là sự phản ánh của Thiên Chúa, Sufi giáo nỗ lực để thấy vẻ đẹp bên trong của những gì thấy xấu xí bên ngoài. Sufi giáo thường được gọi là tôn giáo của tình yêu. Thiên Chúa trong Sufi giáo được nhắc đến trong ba thuật ngữ chính, đó là Người tình, Người được yêu và Người được yêu say đắm, với thuật ngữ cuối cùng thường thấy trong thơ Sufi. Một quan điểm phổ biến của Sufi giáo là thông qua tình yêu, loài người có thể lấy lại sự thuần khiết và ân sủng vốn có của nó. Các vị thánh của Sufi giáo nổi tiếng vì “say sưa” với tình yêu của Thiên Chúa; do đó, thường xuyên có các ám chỉ đến rượu vang trong thơ và nhạc Sufi.

Baha’i giáo

Trong quyển sách Những Bài Giảng Của Đức Abdul-Baha Tại Paris, `Abdu’l-Bahá mô tả bốn loại tình yêu: tình yêu tuôn chảy từ Thiên Chúa sang con người; tình yêu tuôn chảy từ con người đến Thiên Chúa; tình yêu của Thiên Chúa đối với Bản ngã hoặc Bản sắc của Thiên Chúa; và tình yêu của con người dành cho con người.[51][52]

Các tôn giáo Ấn Độ Phật giáo

Lý tưởng Bồ tát trong Phật giáo Đại thừa tương quan đến việc từ bỏ trọn vẹn chính mình để gánh lấy gánh nặng của một quốc tế đang đau khổ. Động lực can đảm và mạnh mẽ nhất mà người ta có để đi theo con đường của Bồ tát là ý tưởng sáng tạo cứu rỗi trong tình yêu vị tha, quên mình cho toàn bộ chúng sinh .

Ấn Độ giáo

Belur

Kama (trái) với Rati trên một bức tường của Đền Chennakesava

Trong Ấn Độ giáo, kāma là thú vui, tình yêu, được nhân cách hóa bởi vị thần Kamadeva. Đối với nhiều trường phái Hindu, đó là cách kết thúc thứ ba (Kama) trong cuộc đời. Kamadeva thường được mô tả cầm một cây cung làm từ cây mía và một mũi tên làm từ hoa; thần có thể cưỡi trên một con vẹt lớn. Kamadeva thường đi cùng với người phối ngẫu Rati và người bạn đồng hành Vasanta, chúa tể của mùa xuân. Hình ảnh trên đá của Kamadeva và Rati có thể được nhìn thấy trên cửa của ngôi đền Chennakeshava tại Belur, ở Karnataka, Ấn Độ. Maara là tên gọi khác của kāma.

Trái ngược với kāma, prema – hoặc Prem – đề cập đến tình yêu nâng cao. Karuna là lòng trắc ẩn và lòng thương xót, thúc đẩy một người giúp giảm bớt đau khổ của người khác. Bhakti là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “lòng sùng kính yêu thương đối với Thiên Chúa tối cao”. Một người thực hành bhakti được gọi là bhakta. Các nhà văn, nhà thần học và triết gia Ấn Độ giáo đã phân biệt chín hình thức bhakti, có thể được tìm thấy trong Bhagavata Purana và các tác phẩm của Tulsidas. Tác phẩm triết học Narada Bhakti Sutras, được một tác giả vô danh (được nhận định là Narada) viết ra, trong đó phân biệt mười một hình thức của tình yêu.

Tham khảo Liên kết ngoài

Thốt Nốt – Wikipedia Tiếng Việt

Thốt nốt hay thốt lốt[cần dẫn nguồn] (danh pháp hai phần: Borassus flabellifer) là loài thực vật thuộc họ Cau, bản địa của Nam Á và Đông Nam Á, phân bố từ Indonesia đến Pakistan.

Thốt nốt là cây thân thẳng, tuổi thọ hoàn toàn có thể trên 100 năm và hoàn toàn có thể vươn cao 30 m. Cây có một vòm lá vươn rộng 3 mét theo chiều ngang. Thân cây to, trông giống thân cây dừa, được bao quanh bởi những sẹo lá. Cụm hoa là những bông mo, mang hoa đơn tính khác gốc. Thốt nốt cho từ 50 đến 60 quả / cây .Thốt nốt có năng lực chịu khô hạn, ngập nước, ưa nắng nhưng không chịu rét. Thốt nốt non bắt đầu sinh trưởng chậm, về sau mọc nhanh hơn .

Nhiều người nhầm lẫn loài cây bối đa với cây thốt nốt được miêu tả trong Gia Định Thành thông chí của Trịnh Hoài Đức.

Bạn đang đọc: Thốt nốt – Wikipedia tiếng Việt

Ở những bang Tamil Nadu và Andhra Pradesh, Ấn Độ, và ở Jaffna, Sri Lanka, người ta trồng cây thốt nốt rồi thu hoạch phần mầm dưới mặt đất để mang về luộc hoặc nướng ăn. Loại thức ăn này rất giàu chất xơ và bổ dưỡng .

Người ta cũng cắt phần vỏ cứng của hạt đã nảy mầm ra để lấy phần ruột giòn, có vị như củ năn ngọt.

Tán láLá thốt nốt được dùng lợp nhà, làm thảm, đan rổ, làm quạt, đan nón, làm ô hoặc dùng như giấy. Tại Indonesia, lá cây được dùng như giấy trong văn hóa truyền thống cổ. Người ta lựa chọn lá có kích cỡ, hình dáng, độ già tương thích rồi luộc trong nước muối cùng bột nghệ ( đóng vai trò chất dữ gìn và bảo vệ ). Sau đó lá được đem phơi khô. Khi đã đủ khô, mặt phẳng lá được đánh bóng bằng đá bọt rồi đem cắt, đục lỗ ở góc. Mỗi lá được làm thành bốn trang giấy .Cuống lá có cạnh sắc nhọn, hoàn toàn có thể đóng thành hàng rào. Riêng phần vỏ của cuống lá hoàn toàn có thể được tước ra dùng làm dây thừng. Ở vài vùng tại Tamil Nadu, Ấn Độ, lá cây thốt nốt được dùng khi chế biến bánh kolukattai – một dạng bánh bột gạo .

Thân cây được dùng làm cột xây nhà, dầm cầu. Gỗ thốt nốt cứng, nặng, bền, có giá trị cao trong xây dựng.

Thốt nốt là loại cây trang trí được ưu thích, được trồng trong vườn hay khu vui chơi giải trí công viên như một loại hoa lá cây cảnh .

Cây thốt nốt là loại cây được xem trọng trong văn hóa truyền thống của người Tamil, được gọi là ” Karpaha Veruksham ” ( tạm dịch : ” cây trời ” ) do toàn bộ bộ phận đều có công suất nào đó. Cây cũng là hình tượng của Nam Sulawesi, Indonesia và của Campuchia .

Bang Chan – Wikipedia Tiếng Việt

Là thành viên thuộc team producer 3RACHA

Bang Chan sinh vào tháng 10 năm 1997, là con trai cả trong một mái ấm gia đình có ba người con ở Seoul, Nước Hàn. Trong suốt thời thơ ấu của mình, Chan đã chuyển đến Sydney, nước Australia và chuyển nhà nhiều lần. Anh tham gia những lớp học khiêu vũ gồm có cả múa ba lê và nhảy tân tiến. Anh cũng rất thích chơi thể thao và giành được nhiều phần thưởng về lượn lờ bơi lội .

2010-2023:

Năm 2010, ở tuổi 13, anh đã vượt qua một buổi thử giọng địa phương ở Úc cho công ty K-pop JYP Entertainment. Mặc dù tuổi còn trẻ, anh ấy đã chuyển đến Nước Hàn để đào tạo và giảng dạy tại JYPE vào tháng 4 năm 2011. Trong thời hạn thao tác tại công ty, Chan đã kết bạn với nhiều người bạn thân gồm có GOT7, TWICE và DAY6. Chan đã huấn luyện và đào tạo tại JYPE trong 7 năm, tận mắt chứng kiến ​ ​ những người bạn thực tập sinh của mình ra đời mà không có anh ấy .

[4], lên SoundCloud, bao gồm bảy bản nhạc. Đơn vị tiếp tục phát hành các album mở rộng tự sáng tác trên Soundcloud.

Bạn đang đọc: Bang Chan – Wikipedia tiếng Việt

Sau đó, vào tháng 8 năm 2023 được bật mý rằng JYPE đang có một chương trình trong thực tiễn sống còn để ra đời một nhóm nhạc thần tượng nam. Bang Chan là trưởng nhóm của ” Dự án nhóm nam ” gồm 9 thành viên, gồm có cả Han và Changbin .Vào tháng 12 năm 2023, có thông tin bật mý rằng Bang Chan ở đầu cuối cũng sẽ ra đời với tư cách là trưởng nhóm của nhóm nhạc nam ” Stray Kids ” .

Vào ngày 25 tháng 3 năm 2023, Bang Chan đã có màn ra mắt được chờ đợi từ lâu với mini-album I am NOT trên cương vị trưởng nhóm, giọng ca chính, vũ công chính, nhà soạn nhạc, người viết lời và rapper của Stray Kids.

Vào tháng 6 năm 2023, Chan cũng đã ghi danh vào top nghệ sĩ có nhiều bản quyền bài hát với 90 bài hát được đăng kí trên KOMCA[6]

Đến từ Australia và mang quốc tịch Úc, gốc Hàn[7].

Chan có 1 người em gái nhỏ tên là Hannah, và 1 người em trai nhỏ tên là Lucas.

Gia nhập JYPE và trở thành thực tập sinh vào năm 2011.

Thành lập ra nhóm rap 3 RACHA cùng với Han( chúng tôi ) và Changbin(SPEARB) với nghệ danh CB97.

Đã từng xuất hiện trong MV “Like Ooh Ahh” của TWICE và trong MV “Only You” của tiền bối Miss A.

Mã số của tại Korea Music Copyright Association (KOMCA) là: Z0504304[8].

Chan từng học tại trường trung học Cheongdam. (SK-Talk Time 180422).Trước khi rời Sydney, Chan từng học tại trường Trung học Biểu diễn Nghệ thuật Newtown.

Seungmin và Chan học cùng trường trung học, và Chan là tiền bối của Seungmin.

Chan đã từng tham gia các lớp múa ba lê và nhảy hiện đại.

Chan muốn trở thành một ca sĩ vì anh ấy thích làm cho mọi người có khoảng thời gian vui vẻ từ khi còn là một đứa trẻ.

Bang Chan đã chuyển nhà 5 lần khi anh ấy sống ở Úc: 1.Strathfield, NSW; 2. Drummoyne, NSW; 3.Enfield, NSW; 4.Belmore, NSW; 5. Greenacre, NSW

Chan là bạn cùng phòng với Changbin và Felix

Chan đã được đào tạo trong 7 năm.

Chan tự mình thành lập nhóm, hỗ trợ các thành viên.

Chan cũng tạo ra tên nhóm và logo thiết kế của họ.

Dựa trên ý kiến của các thành viên, biệt danh của Chan là: “Kangaroo”, vì anh ấy có thể nhảy rất cao, và “Ma cà rồng” hoặc “Vamp-chan”, do làn da quá trắng của anh ấy.

Kiểu tính cách MBTI của Chan là ENFJ.

Chan thích những ngày nắng hơn mưa, thích mùa hè hơn mùa đông và khi gặp bạn bè sẽ tán gẫu thật nhiều.

Chan thích chơi thể thao.

Các tác phẩm [9]

Năm

Artist

Song

Album

Type

Ghi chú

2023

Stray Kids

“Hellevator”

“Hellevator”

Writting Arranging

3RACHA

1.”Intro”

2.”Tik Tok”

3.”Runner’s High”

4.”Don Quixote”

5.”Silver Stone”

6.”Wow”

7.”Nxt 2 U”

J:/2023/mixtape

Writing Aranging

1.”Shhh” 9.”I See”

3Days

Writing Aranging

1.”Matryoshka” 8.”For You”

Horizon

Writting Arranging

2023

Stray Kids

“Beware” “4419”

Mixtape

Writting

Composing

Features

Tzuyu – “ME!” (cover)Melody Project(2023).[12]

Other releases

“Drive” with Lee Know

Năm

Tạp chí

Số phát hành

Ghi chú

2023

The Star

Tháng 5

Với Stray Kids

10+ STAR Korea

Nylon Korea

Tháng 10

Dazed Korea

Tháng 11

2023

Tháng 2

Marie Claire Korea

Tháng 4

1st Look

Tháng 5

Dazed Korea

Tháng 8

MXI x Kwave

Số 5

2023

Nylon guys Japan

Tháng 2

SHEL’TTER Japan

Tháng 3

JJ Japan

Tháng 4

RAY Japan

Tháng 5

Barfout! Japan

Tháng 6/Vol.297

Singles Korea

Tháng 9

Vogue Korea

Tháng 10

CUT Japan

Tháng 11

Mini Japan

Tháng 12

CanCam Japan

Nikkei Japan

2023

ELLE Korea

Tháng 1

Với Han, Hyunjin, Felix

MEN’S FOLIO[18]

Tháng 3

Solo

1st Look

Tháng 5

Với Stray Kids

W Korea

Tháng 7

Singles Korea

Tháng 10

Reality shows

Stray Kids (Mnet, 2023)

Kingdom: Legendary War(Mnet, 2023)[19][20]

Báo Lá Cải – Wikipedia Tiếng Việt

Một ấn phẩm báo lá cải ở khổ rộng .

Báo lá cải đã trở nên đổi khác trong nhiều thập kỷ qua để bắt kịp với tin tức và xu thế hiện thời, trong đó có việc phát hành loại báo khổ nhỏ thay vì báo khổ rộng và chuyển định dạng từ báo giấy sang nền tảng mạng trực tuyến với những tiêu đề bài báo giật tít nhằm mục đích lôi cuốn người xem .

Báo Scandal được coi là tiền thân của báo lá cải. Vào khoảng những năm 1770, các tờ báo Scandal đã xuất hiện ở London và ở Mỹ từ những năm 1840.[2] Mục sư Henry Bate là biên tập viên đầu tiên của một trong những tờ báo Scandal sớm nhất, The Morning Post. Tờ báo Scandal phổ biến nhất ở Hoa Kỳ ở thời điểm đó là National Police Gazette.[2]

Bạn đang đọc: Báo lá cải – Wikipedia tiếng Việt

Những tờ báo Scandal vào đầu thế kỷ 20 thường là những tờ báo rẻ tiền có độ dài khoảng từ 4 đến 8 trang, chuyên viết về những điều tục tĩu và mang tính xúc phạm, đôi khi còn được dùng để truyền bá tư tưởng chính trị, quan điểm về một cá nhân hay tổ chức hoặc kiếm tiền/tống tiền.

Tại Hoa Kỳ và Canada, Báo lá cải siêu thị là phiên bản mang tính quốc gia của những tờ báo lá cải và thường được xuất bản hàng tuần. Loại báo này được đặt ở những vị trí nổi bật dọc theo các hàng thanh toán của siêu thị.[3]

Những tờ báo lá cải này – chẳng hạn như The Globe hay National Enquirer – thường sử dụng chiến thuật gây hấn và ác ý để kiếm tin cho họ. Không giống như các tờ báo lá cải thông thường, các tờ báo lá cải siêu thị sẽ được phân phối rộng rãi thông qua kênh phân phối tạp chí giống như các tạp chí hàng tuần khác và các loại sách bìa mềm trên thị trường.[4]

Thuật ngữ “red tops” dùng để chỉ các tờ báo lá cải của Anh có tiêu đề màu đỏ, chẳng hạn như The Sun, Daily Star, Daily Mirror và Daily Record.[5]

Báo lá cải đã trở nên đổi khác trong nhiều thập kỷ qua để bắt kịp với tin tức và khuynh hướng hiện thời, trong đó có việc quy đổi khổ báo từ báo khổ rộng sang báo khổ nhỏ và chuyển định dạng tin tức từ báo giấy sang những nền tảng mạng trực tuyến nhằm mục đích tăng năng lực tiếp cận, lôi cuốn người xem. [ 6 ] Với sự sụt giảm qua thời hạn của những tờ báo trả phí, khoảng trống đã được lấp đầy bởi những tờ nhật báo không tính tiền được xuất bản đa phần ở dạng báo lá cải. Người đọc báo lá cải thường là người trẻ tuổi và những nghiên cứu và điều tra cho thấy những người đọc báo lá cải thường có trình độ học vấn thấp. Đôi khi loại báo này hoàn toàn có thể mang tính công kích cá thể hay xuyên tạc sự kiện và bê bối. [ 7 ]

Định nghĩa của red top tại Wiktionary

Ký Sinh Trùng (Phim 2023) – Wikipedia Tiếng Việt

Ký sinh trùng (tiếng Hàn: 기생충; Romaja: Gisaengchung, tiếng Anh: Parasite) là một bộ phim điện ảnh hài kịch đen[3] của Hàn Quốc, được ra mắt công chúng vào năm 2023 do Bong Joon-ho làm đạo diễn. Phim có sự tham gia diễn xuất của dàn diễn viên: Song Kang-ho, Lee Sun-kyun, Cho Yeo-jeong, Choi Woo-sik và Park So-dam. Tác phẩm đã đoạt giải thưởng Cành cọ vàng khi tham dự Liên hoan phim Cannes 2023 tại Pháp và qua đó chính thức trở thành bộ phim Hàn Quốc đầu tiên trong lịch sử nhận giải thưởng này.[4][5][6][7]

Vào tháng 2 năm 2023, bộ phim tiếp tục làm nên lịch sử khi giành tượng vàng Oscar cho hạng mục Phim hay nhất và 3 giải khác tại lễ trao giải Oscar lần thứ 92, bao gồm: Đạo diễn xuất sắc nhất cho Bong Joon-ho, Kịch bản gốc xuất sắc nhất, Phim tiếng nước ngoài hay nhất. Ký sinh trùng trở thành tác phẩm tiếng nước ngoài và là phim châu Á đầu tiên đoạt giải thưởng Phim hay nhất của Oscar.[8]

Kim Ki-taek, một cựu tài xế thất nghiệp, sống cùng vợ Chung-sook và hai đứa con trong một căn hộ cao cấp tồi tàn thực ra là một căn bán hầm cũ kỹ đã được tái sử dụng để làm nơi ở, có tầm mắt nhìn từ trong ra ngoài chỉ ngang ngửa mặt đất. Cả nhà kiếm sống qua ngày bằng việc làm gấp những hộp giấy đựng bánh pizza. Một ngày nọ, Min-hyuk – bạn của Ki-woo, ghé chơi và Tặng cho cả nhà một hòn đá lưu niệm làm vật cầu may. Min-hyuk còn ngỏ lời trình làng Ki-woo đến làm gia sư môn tiếng Anh cho Park Da-hye – một cô bé của một mái ấm gia đình thượng lưu phong phú. Khi đến nơi, Ki-woo được phu nhân nhà họ Park – Choi Yeon-kyo nghênh tiếp tại biệt thự nghỉ dưỡng hạng sang. Ở đây, Ki-woo cũng được gặp bà quản gia Gook Moon-gwang và cậu nhóc Park Da-song, em trai của Da-hye. Giả vờ phát hiện ra năng lực nghệ thuật và thẩm mỹ của Da-song qua những bức tranh kỳ lạ do chính cậu bé vẽ, phối hợp với việc bà Park luôn tự coi cậu con trai cưng của mình là một kĩ năng mỹ thuật thiên bẩm, Ki-woo đã ra mắt em gái mình, Ki-jeong đóng giả một giáo viên nghệ thuật và thẩm mỹ học vừa mới từ Mỹ về để kèm cặp Da-song. Sau khi được nhận làm gia sư, Ki-jeong lập mưu để đuổi việc Yoon – viên tài xế hiện tại của ông Park rồi giới thiệu chính bố mình, ông Ki-taek thế chỗ. Bằng thủ đoạn tựa như, bà Chung-sook được nhận làm quản gia sau khi nhà họ Kim khiến nhà họ Park nghĩ rằng bà Moon-gwang đang bị mắc bệnh lao .

Một ngày nọ, cả nhà họ Park đi cắm trại. Nhà họ Kim chớp lấy thời cơ này để tụ tập tiệc tùng trong biệt thự. Nhưng đột nhiên, bà Moon-gwang xin vào nhà để lấy đồ bỏ quên dưới tầng hầm. Cả nhà họ Kim sau đó vô cùng bất ngờ khi phát hiện ra rằng có một tầng hầm bí mật dẫn sâu xuống dưới lòng đất đằng sau tủ rượu. Đây cũng là nơi chồng bà Moon-gwang, Oh Geun-sae – chủ của tiệm bánh Đài Loan, đã bí mật trốn và sinh sống trong suốt nhiều năm qua sau khi phá sản và buộc phải chạy trốn khỏi các chủ nợ. Trong lúc bà Moon-gwang đang cố nài nỉ, cầu xin bà Chung-sook đừng tiết lộ chồng mình thì ông Kim trượt chân và đẩy cả gia đình nhà họ Kim (lúc này đang trốn và nghe lén trên cầu thang của căn hầm) ngã nhào xuống. Lúc này, Moon-gwang phát hiện ra những người này cùng thuộc một gia đình. Hai bên tranh cãi và giằng co kịch liệt, nhưng nhà họ Kim cuối cùng cũng giành được chiến thắng và nhốt vợ chồng bà quản gia cũ dưới hầm. Bà Park gọi điện, báo bà Chung-sook chuẩn bị đồ ăn vì nhà Park sẽ về trong chốc lát. Ki-taek, Ki-jeong và Ki-woo nhanh chóng dọn dẹp dấu vết, ẩn nấp và trốn thoát sau khi cả nhà họ Park đã ngủ say. Ở nhà mình, giờ đây đã ngập trong biển nước và rác thải do trận lụt lớn, Ki-woo tìm viên đá cầu may. Cả ba bố con cùng những người vô gia cư khác ngủ trong một nhà thi đấu thể thao.

Ngày hôm sau, bà Park tổ chức triển khai tiệc mừng sinh nhật cho Da-song và mời cả nhà họ Kim đến chung vui. Trong khi bữa tiệc đang diễn ra, Ki-woo mang theo viên đá xuống tầng hầm dưới đất và phát hiện ra bà Moon-gwang không may đã chết. Bất ngờ, Geun-sae thòng cổ Ki-woo từ đằng sau bằng một sợi dây thừng. Ki-woo chạy ra khỏi được căn hầm, Geun-sae đuổi theo dùng chính viên đá đập vào đầu khiến cậu ngất xỉu. Sau đó, Geun-sae lấy dao và lao ra giữa bữa tiệc để truy lùng những thành viên nhà họ Kim. Geun-sae đâm chết Ki-jeong rồi tiến công sang bà Chung-sook. Chứng kiến cảnh đó, Da-song ngất xỉu. Ông Park nhu yếu ông Kim đưa mình chìa khóa xe để nhanh gọn đưa Da-song đến bệnh viện. Bà Chung-sook giết chết Geun-sae trong khi vật lộn. Khi lật xác của ông ta để lấy chìa khóa xe, ông Park bịt mũi lại khi ngửi thấy mùi từ xác chết cùng chìa khóa. Nhớ lại khoảnh khắc hai vợ chồng nhà Park từng miêu tả mùi của khung hình mình không dễ chịu như thế nào, ông Kim cầm dao lao đến đâm chết ông Park rồi bỏ trốn và bí hiểm chui xuống chính căn hầm của nhà họ Park. Ki-woo suôn sẻ được cứu sống nhưng cậu bị tổn thương não bộ nặng và phải cùng mẹ mình trải qua phiên tòa xét xử xét xử .Nhiều năm sau đó, Ki-woo vô tình đọc được bức thư của cha mình được kí hiệu bằng mã Morse trải qua mạng lưới hệ thống đèn của ngôi biệt thự nghỉ dưỡng hạng sang ( lúc này đã được bán lại cho một mái ấm gia đình người Đức ). Ki-woo hứa rằng cậu sẽ đi làm, kiếm đủ tiền để mua lại chính căn biệt thự cao cấp kia, giải thoát cho cha mình và mái ấm gia đình sẽ lại sum vầy như xưa .

Đạo diễn Bong đã gọi Parasite là một tầng trên/tầng dưới hoặc “phim cầu thang”,[17] trong đó cầu thang được sử dụng như một mô típ để đại diện cho vị trí của các gia đình đối lập như Kim và Park, cũng như của bà quản gia Moon-gwang.[18] Căn hộ bán tầng hầm mà gia đình Kim sống là phổ biến cho cư dân nghèo Seoul, mặc dù có một số vấn đề, nguy cơ như tăng nấm mốc và mắc các bệnh về phổi, nhưng do giá thuê thấp, nhiều người vẫn chấp nhận đánh đổi.[10] Lũ và gió mùa như trận lụt được mô tả trong phim thường gây thiệt hại nhiều nhất cho các loại nhà ở này.[16] Một số nhà phê bình khác còn nhận thấy các chỉ dấu tham khảo về hậu quả bất công của biến đổi khí hậu.[19]

Theo đạo diễn Bong, đoạn kết ngụ ý rằng Ki-woo sẽ không thể kiếm được số tiền cần thiết để mua căn nhà vì nó cho thấy Ki-woo vẫn ở dưới tầng hầm; ông mô tả phát súng này là “giết chết chắc chắn” (확인 и), đề cập đến một đòn ân sủng để đảm bảo cái chết.[17] Bài hát kết thúc đề cập đến Ki-woo làm việc để kiếm tiền mua nhà; Choi Woo-sik cũng tuyên bố rằng:

“Phải mất hàng trăm năm để Ki-woo thực sự tiết kiệm tiền để mua căn nhà đó” nhưng “Tôi khá chắc chắn rằng Ki-woo là một trong những đứa trẻ thông minh đó. Anh ấy sẽ nảy ra một số ý tưởng, và anh ấy sẽ đi vào nhà của gia đình Đức, và tôi nghĩ anh ấy sẽ giải cứu cha mình”.[20]

Đạo diễn và dàn diễn viên tại một sự kiện họp báo.

Phim có buổi chiếu ra đời toàn quốc tế tại Liên hoan phim Cannes 2023 vào ngày 21 tháng 5. [ 28 ] Phim khởi đầu trình chiếu chính thức tại Nước Hàn từ ngày 30 tháng 5 năm 2023. [ 26 ] [ 29 ]Hãng phân phối phim Neon mua lại quyền phát hành tại thị trường Mỹ và Canada trong khuôn khổ 2023 American Film Market. [ 30 ] [ 31 ]

Ký sinh trùng thu về 53.4 triệu USD tại Mỹ và Canada, và 205.2 triệu USD tại các quốc gia khác (bao gồm 71.3 triệu USD tại Hàn Quốc), tổng cộng là 258.4 triệu USD trên toàn thế giới.[32][33]

Bài chi tiết: Danh sách đề cử và giải thưởng của phim Ký sinh trùng

Một loạt phim giới hạn của HBO dựa trên bộ phim, với nhà sản xuất điều hành và đạo diễn Bong và Adam McKay, đang trong giai đoạn đầu phát triển.[35] Bong đã tuyên bố rằng bộ truyện, cũng mang tên “Parasite”, sẽ khám phá những câu chuyện “xảy ra ở giữa các cảnh trong phim”.[36][37] Vào tháng Hai, nam diễn viên Mark Ruffalo đã được chú ý để đóng vai chính trong loạt phim này.[38]

Giải Vô Địch Bóng Đá Châu Âu 2023 – Wikipedia Tiếng Việt

Live It. For Real.

Chi tiết giải đấuNước chủ nhà

11

Azerbaijan

Đan Mạch

Anh

Đức

Hungary

Ý

Hà Lan

Romania

Nga

Scotland

Tây Ban Nha

Thời gian11 tháng 6 – 11 tháng 7 năm 2023Số đội24Địa điểm thi đấu11 (tại 11 thành phố chủ nhà)Vị trí chung cuộcVô địch Á quân Thống kê giải đấuSố trận đấu51Số bàn thắng142 (2.78 bàn/trận)Số khán giả1.099.278 (21.554 khán giả/trận)Vua phá lưới

(mỗi cầu thủ 5 bàn)

Cầu thủ xuất sắc nhất Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất BakuSân vận động Olympic68.700Gói tiêu chuẩnVòng bảng và tứ kết MinskSân vận động Dinamo34.000 (được mở rộng đến 39.000)Gói tiêu chuẩnTừ chối BrusselsSân vận động Euro (sân vận động quốc gia mới được đề xuất)50.000 (khả năng 62.613)Gói tiêu chuẩnVòng bảng và vòng 16 đội

(sau đó đã hủy bỏ)

SofiaSân vận động Quốc gia Vasil Levski43.000 (được mở rộng đến 50.000)Gói tiêu chuẩnTừ chối CopenhagenSân vận động Parken38.065Gói tiêu chuẩnVòng bảng và vòng 16 đội Luân ĐônSân vận động Wembley90.000Gói chung kết

(Gói tiêu chuẩn rút lui)

Bán kết và chung kết

Vòng bảng và vòng 16 đội (sau đó đã thêm)

MunichAllianz Arena75.000Gói tiêu chuẩn, Gói chung kếtVòng bảng và tứ kết BudapestPuskás Aréna56.000 (sân vận động mới 68.000 được đề xuất)Gói tiêu chuẩnVòng bảng và vòng 16 đội JerusalemSân vận động Teddy34.000 (được mở rộng đến 53.000)Gói tiêu chuẩnTừ chối RomaSân vận động Olimpico72.698Gói tiêu chuẩnTrận mở màn, vòng bảng và tứ kết SkopjePhilip II Arena33.460Gói tiêu chuẩnTừ chối AmsterdamAmsterdam Arena[a]54.990 (được mở rộng đến khoảng 56.000)Gói tiêu chuẩnVòng bảng và vòng 16 đội DublinSân vận động Aviva51.700Gói tiêu chuẩnVòng bảng và vòng 16 đội

(sau đó đã bị hủy bỏ)

BucharestArena Națională55.600Gói tiêu chuẩnVòng bảng và vòng 16 đội Sankt-PeterburgSân vận động Krestovsky68.134Gói tiêu chuẩnVòng bảng và tứ kết GlasgowHampden Park52.063Gói tiêu chuẩnVòng bảng và vòng 16 đội BilbaoSan Mamés53.289Gói tiêu chuẩnVòng bảng và vòng 16 đội

(sau đó đã chuyển sang La Cartuja ở Sevilla)

Solna, StockholmFriends Arena54.329Gói tiêu chuẩnBị loại Nhất bảng I10 tháng 10 năm 20235 (1972, 1980, 1984, 2000, 2023) Nhất bảng J12 tháng 10 năm 20239 (1968, 1980, 1988, 1996, 2000, 2004, 2008, 2012, 2023) Nhì bảng I13 tháng 10 năm 202311 (1960, 1964, 1968, 1972, 1988, 1992, 1996, 2004, 2008, 2012, 2023) Nhất bảng G13 tháng 10 năm 20233 (2008, 2012, 2023) Nhất bảng B14 tháng 10 năm 20232 (2012, 2023) Nhất bảng F15 tháng 10 năm 202310 (1964, 1980, 1984, 1988, 1996, 2000, 2004, 2008, 2012, 2023) Nhất bảng H14 tháng 11 năm 20239 (1960, 1984, 1992, 1996, 2000, 2004, 2008, 2012, 2023) Nhì bảng H14 tháng 11 năm 20234 (1996, 2000, 2008, 2023) Nhất bảng A14 tháng 11 năm 20239 (1968, 1980, 1988, 1992, 1996, 2000, 2004, 2012, 2023) Nhì bảng A14 tháng 11 năm 20239 (1960, 1976, 1980, 1996, 2000, 2004, 2008, 2012, 2023) Nhì bảng J15 tháng 11 năm 20230 (lần đầu) Nhì bảng F15 tháng 11 năm 20236 (1992, 2000, 2004, 2008, 2012, 2023) Nhất bảng E16 tháng 11 năm 20235 (1996, 2004, 2008, 2012, 2023) Nhì bảng G16 tháng 11 năm 20232 (2008, 2023) Nhì bảng C16 tháng 11 năm 20239 (1976, 1980, 1988, 1992, 1996, 2000, 2004, 2008, 2012) Nhất bảng C16 tháng 11 năm 202312 (1972, 1976, 1980, 1984, 1988, 1992, 1996, 2000, 2004, 2008, 2012, 2023) Nhì bảng B17 tháng 11 năm 20237 (1984, 1996, 2000, 2004, 2008, 2012, 2023) Nhất bảng D18 tháng 11 năm 20234 (1996, 2004, 2008, 2023) Nhì bảng D18 tháng 11 năm 20238 (1964, 1984, 1988, 1992, 1996, 2000, 2004, 2012) Nhì bảng E19 tháng 11 năm 20231 (2023) Nhất path A play-off12 tháng 11 năm 20233 (1964, 1972, 2023) Nhất path B play-off12 tháng 11 năm 20231 (2023) Nhất path C play-off12 tháng 11 năm 20232 (1992, 1996)

Sân vận động WembleySân vận động OlimpicoAllianz ArenaSức chứa: 90.000Sức chứa: 70.634Sức chứa: 70.000

Sân vận động OlympicSân vận động KrestovskyPuskás ArénaSức chứa: 68.700Sức chứa: 68.134Sức chứa: 67.215

La CartujaArena NaționalăJohan Cruyff ArenaHampden ParkSân vận động ParkenSức chứa: 60.000Sức chứa: 55.600Sức chứa: 54.990Sức chứa: 51.866Sức chứa: 38.065

Bị loại ở vòng bảng vòng loạiKhông Không Đủ điều kiện trực tiếp vào chung kếtB Đủ điều kiện trực tiếp vào chung kếtCó

Đủ điều kiện trực tiếp vào chung kếtC Đủ điều kiện trực tiếp vào chung kếtKhông Không Bị loại thông qua vòng play-offD Đủ điều kiện trực tiếp vào chung kếtKhông

Đủ điều kiện thông qua vòng play-offE Bị loại thông qua vòng play-offKhông Không Đủ điều kiện trực tiếp vào chung kếtF Đủ điều kiện trực tiếp vào chung kếtKhông

Seefeld in Tirol, Áo Tubize, Bỉ Rovinj, Croatia[a] Prague, Cộng hòa Séc[b] Helsingør, Đan Mạch Burton upon Trent, Anh Repino, Sankt-Peterburg, Nga Clairefontaine-en-Yvelines, Pháp Herzogenaurach, Đức Telki, Hungary Coverciano, Florence, Ý Zeist, Hà Lan Bucharest, România Sopot, Ba Lan[c] Budapest, Hungary Novogorsk, Khimki, Russia Hurworth-on-Tees, Anh[133] Sankt-Peterburg, Nga[d] Las Rozas de Madrid, Tây Ban Nha Gothenburg, Thụy Điển[e] Roma, Ý Baku, Azerbaijan Bucharest, România Stuart Attwell

Chris Kavanagh

Lee Betts Jérôme Brisard

François Letexier

Benjamin Pagès Bastian Dankert

Christian Dingert

Marco Fritz

Christian Gittelmann Marco Di Bello

Massimiliano Irrati

Paolo Valeri

Filippo Meli Kevin Blom

Pol van Boekel

Paweł Gil João Pinheiro Alejandro Hernández Hernández

Juan Martínez Munuera

José María Sánchez Martínez

Íñigo Prieto López de CerainQuốc giaTrọng tài thứ tưTrợ lý trọng tài dự bị Georgi KabakovMartin Margaritov Stéphanie FrappartMikaël Berchebru Davide MassaStefano Alassio Bartosz FrankowskiMarcin Boniek Srđan JovanovićUroš Stojković 330070+79Đi tiếp vào vòng đấu loại trực tiếp2 311132+14[a]3 311145−14[a]4 300318−70Thổ Nhĩ Kỳ 0–3 Chi tiếtWales 1–1 Chi tiếtThổ Nhĩ Kỳ 0–2 Chi tiếtÝ 3–0 Chi tiếtThụy Sĩ 3–1 Chi tiếtÝ 1–0 330071+69Đi tiếp vào vòng đấu loại trực tiếp2 310254+13[a]3 310213−23[a]4 310227−53[a]Đan Mạch 0–1 Chi tiếtBỉ 3–0 Chi tiếtPhần Lan 0–1 Chi tiếtĐan Mạch 1–2 Chi tiếtNga 1–4 Dzyuba Chi tiếtPhần Lan 0–2 330082+69Đi tiếp vào vòng đấu loại trực tiếp2 320143+163 310245−134 300328−60

(H) Chủ nhà

Áo 3–1 Chi tiếtHà Lan 3–2 Chi tiếtUkraina 2–1 Chi tiếtHà Lan 2–0 Chi tiếtBắc Macedonia 0–3 Chi tiếtUkraina 0–1 321020+27Đi tiếp vào vòng đấu loại trực tiếp2 311143+14[a]3 311132+14[a]4 301215−41Anh 1–0 Chi tiếtScotland 0–2 Chi tiếtCroatia 1–1 Chi tiếtAnh 0–0 Chi tiếtCroatia 3–1 Chi tiếtCộng hòa Séc 0–1 321042+27Đi tiếp vào vòng đấu loại trực tiếp2 312061+553 310227−534 301246−21

(H) Chủ nhà

Ba Lan 1–2 Chi tiếtTây Ban Nha 0–0 Chi tiếtThụy Điển 1–0 Chi tiếtTây Ban Nha 1–1 Chi tiếtSlovakia 0–5 Chi tiếtThụy Điển 3–2 312043+15Đi tiếp vào vòng đấu loại trực tiếp2 311165+14[a]3 311176+14[a]4 302136−32Hungary 0–3 Chi tiếtPháp 1–0 Chi tiếtHungary 1–1 Chi tiếtBồ Đào Nha 2–4 Chi tiếtBồ Đào Nha 2–2 Chi tiếtĐức 2–2 311132+14Đi tiếp vào vòng đấu loại trực tiếp2A 311145−143F 311176+144C 310245−135B 310213−236E 12 tháng 7 – München 0 126 tháng 6 – Luân Đôn 2 26 tháng 7 – Luân Đôn 1 1 (4)28 tháng 6 – Bucharest 1 (2) 3 (4)2 tháng 7 – Sankt-Peterburg 3 (5) 1 (1)28 tháng 6 – Copenhagen 1 (3) 311 tháng 7 – Luân Đôn 5 1 (3)29 tháng 6 – Glasgow 1 (2) 13 tháng 7 – Roma 2 029 tháng 6 – Luân Đôn 4 27 tháng 7 – Luân Đôn 0 227 tháng 6 – Budapest 1 03 tháng 7 – Baku 2 126 tháng 6 – Amsterdam 2 0 Chi tiếtÝ 2–1 (s.h.p.) Chi tiếtHà Lan 0–2 Chi tiếtBỉ 1–0 Chi tiếtCroatia 3–5 (s.h.p.) Chi tiếtPháp 3–3 (s.h.p.) Chi tiếtLoạt sút luân lưu4–5Anh 2–0 Chi tiếtThụy Điển 1–2 (s.h.p.) Chi tiếtLoạt sút luân lưu1–3Bỉ 1–2 Chi tiếtCộng hòa Séc 1–2 Chi tiếtUkraina 0–4 Chi tiếtLoạt sút luân lưu4–2Anh 2–1 (s.h.p.) Marko Arnautović

Christoph Baumgartner

Michael Gregoritsch

Saša Kalajdžić

Stefan Lainer

Kevin De Bruyne

Thomas Meunier

Luka Modrić

Mislav Oršić

Mario Pašalić

Nikola Vlašić

Tomáš Holeš

Martin Braithwaite

Andreas Christensen

Thomas Delaney

Jordan Henderson

Harry Maguire

Luke Shaw

Joel Pohjanpalo

Antoine Griezmann

Paul Pogba

Leon Goretzka

Robin Gosens

Attila Fiola

András Schäfer

Ádám Szalai

Nicolò Barella

Leonardo Bonucci

Wout Weghorst

Ezgjan Alioski

Goran Pandev

Karol Linetty

Raphaël Guerreiro

Diogo Jota

Artem Dzyuba

Aleksei Miranchuk

Callum McGregor

Milan Škriniar

César Azpilicueta

Aymeric Laporte

Mikel Oyarzabal

Viktor Claesson

Breel Embolo

Mario Gavranović

İrfan Kahveci

Artem Dovbyk

Oleksandr Zinchenko

Kieffer Moore

Aaron Ramsey

Connor Roberts

1 bàn phản lưới nhà

Simon Kjær (trong trận gặp Anh)

Lukáš Hrádecký (trong trận gặp Bỉ)

Mats Hummels (trong trận gặp Pháp)

Wojciech Szczęsny (trong trận gặp Slovakia)

Rúben Dias (trong trận gặp Đức)

Raphaël Guerreiro (trong trận gặp Đức)

Martin Dúbravka (trong trận gặp Tây Ban Nha)

Juraj Kucka (trong trận gặp Tây Ban Nha)

Pedri (trong trận gặp Croatia)

Denis Zakaria (trong trận gặp Tây Ban Nha)

51360

50404

40349

Bàn thắng đẹp nhất giải

342 30.253 22.54 215 196 16.758 169 15.7510 1511 14.2513

13.517

10.7521 1023

Bảng E v Tây Ban Nha (lượt trận 2; 19 tháng 6 năm 2023) Có hành động xúc phạm cầu thủ khác trong trận đấu Bảng C v Bắc Macedonia (lượt trận 1; 13 tháng 6 năm 2023)[225]Bảng C v Hà Lan (lượt trận 2; 17 tháng 6 năm 2023)

Vòng 16 đội v Đan Mạch (26 tháng 6 năm 2023)

Đội đã bị loại khỏi giải đấu

Đội đã bị loại khỏi giải đấu

Đội đã bị loại khỏi giải đấu

Vòng 16 đội v Tây Ban Nha (28 tháng 6 năm 2023)

Vòng 16 đội v Hà Lan (27 tháng 6 năm 2023)

Đội đã bị loại khỏi giải đấu

Đội đã bị loại khỏi giải đấu

Bị treo giò sau giải đấu

Bị treo giò sau giải đấu

Đội đã bị loại khỏi giải đấu

Tứ kết v Tây Ban Nha (2 tháng 7 năm 2023)

Đội đã bị loại khỏi giải đấu

Đội đã bị loại khỏi giải đấu

Bị treo giò sau giải đấu

Bị treo giò sau giải đấu

7520134+917Vô địch2 7520112+917Á quân3 6240136+710Bị loại ở

bán kết

4 6303127+595 540194+512Bị loại ở

tứ kết

6 521264+277 513189−168 5203610−469 430184+49Bị loại ở

vòng 16 đội

10 421154+1711 413076+1612 4202550613 4112770414 411278−1415 411267−1416 411236−3417 310213−23Bị loại ở

vòng bảng

18 310227−5319 310227−5320 302136−3221 301246−2122 301215−4123 300328−6024

Cập nhật thông tin chi tiết về Tình Yêu – Wikipedia Tiếng Việt trên website Jhab.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!